Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY CHO CURARƠ

Curarơ là những chế phẩm phức tạp chủ yếu chế từ một số cây thuộc chi Mã tiền (Strychnos) họ Mã tiền (Loganiaceae) như Strychnos toxifera, S. gubleri, S. curare v.v... có khi phối hợp với một số cây thuộc chi và họ khác như cây Chondodrendron tonmentosum thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae), một số cây thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Mộc hương (Aristolochiaceae) v.v...

Chế curarơ là một bí truyền bắt nguồn từ một số dân tộc vùng Nam Mỹ (nhiều nhất vùng Amazone, Orenoque) thường dùng trong săn bắn thú rừng. Đặc điểm của curarơ là độ độc rất cao, nhưng gần như không độc nếu uống, chỉ khi nào có vết sây sát thì chất độc vào máu và hầu như chết tức khắc. Thịt thú rừng chết do chất độc curarơ ăn được, thịt mền chứ không co cứng. Bị ngộ độc do curarơ thì con vật chết không có cơn co giật, trái với ngộ độc do mã tiền hay thuốc độc cùng loại strycnin.

Việc sử dụng curarơ trong những dân tộc ở Nam Mỹ đã được nhận xét từ trên 2 thế kỷ nay, nhưng việc nghiên cứu để áp dụng curarơ trong y học mới được tiến hành trong vòng hơn 20 năm gần đây: những chất curarơ hay được dùng trong phẫu thuật nhất là phẫu thuật bụng vì nó làm giảm số lượng thuốc gây mê, cơ và thớ thịt mềm giãn giúp cho việc phẫu thuật được dễ dàng. Curarơ còn  dùng chữa uốn ván vì nó loại trừ được sự co thắt độc tố uốn ván gây ra.

Cho tới nay ở nước ta chưa ai chú ý tìm những nguồn cây cho curarơ trong nước mặc dầu họ cây cho curarơ ở các nước đang khai thác đều có ở nước ta. Những tài liệu sau đây giúp ta có hướng để tìm kiếm.

A. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ CURARƠ

Chữ curarơ hình như do tiếng địa phương của những dân tộc vùng Amazone (Nam Mỹ) gọi chất này: tiếng thông dụng nhất đọc là urarêri có nghĩa là nước để giết chim. Nhân dân Caraip gọi là carachi hay mavacurê. Những dân tộc trước đây chỉ dùng để săn bắn, nhưng sau dùng để chống bọn ngoại xâm Tây Ban Nha.

Năm 1595, nhà thám hiểm Anh Walter Raleigh là người đầu tiên mang về châu âu với tên curarơ.

Năm 1745 La Condamin là người đầu tiên mang về Pháp và thí nghiệm dược lý được tiến hành đầu tiên ở Leydy năm 1774. Năm 1828 Boussingault và Roullin chiết được từ curarơ một ancaloit có tinh thể gọi là curarin. Claude Bernard ở Pháp là người đầu tiên nghiên cứu tác dụng dược lý của curarơ, tới năm 1942 Griffith và Johnson là người đầu tiên dùng curarơ để gây giãn cơ (relaxation musculaire) trong gây mê và từ đó curarơ mới có giá trị thực tiễn trong y học.

Năm 1935 King chiết được từ một ống curarơ (curarơ en tube) nguồn gốc thực vật chưa xác định đượcc một chất gọi là d-tubocurarin.

Năm 1943 Wintersteiner và Dutcher đã xác định được rằng hoạt chất của một loại curarơ vùng thượng Amazone chế từ cây Chondrodendron tomentosum họ Tiết dê (Menispermaceae) đúng là chất d-tubocurarin.

B. NHỮNG CÂY DÙNG CHẾ CURARƠ

Như trên đã nói, cây cho curarơ thuộc nhiều loài, việc xác định có khi chưa được chính xác do viêc giữ bí mật của những người chế curarơ.

Dưới đây là một số cây tương đối chắc chắn:

Họ Tiết dê (Menispermaceae)

   1. Cây Chondodendron tomentosum Ruiz-Pav.: Cây nhỏ có nhiều cành, thân lúc đầu đầy sau thành ống, lúc đầu mang lông sau nhẵn. Quả hình trứng. Cây mọc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, Guyan.

   Rễ cho vị pareira brava thật, dùng làm thuốc chữa điều kinh, chữa sốt.

   Họ Mã tiền Loganiacea.

   2. Cây Strychnos castelnaei Weld: Dây leo phủ lông đỏ nhạt. Lá có 5 gân nổi rõ. Hoa có ống tràng ngắn, cụm họa ở ngọn. Gặp ở vùng thượng Amazone.

   3. Cây Strychnos crevauxiana Baill.: Dây leo dài 40-45m, lá có phủ lông ở mặt dưới, cụm hoa ở kẽ lá, ống có tràng hơi dài. Gặp ở Guyan.

   4. Cây Strychnos toxifera Schomb: Dây leo có phủ lông, cụm hoa ở ngọn, ống tràng rất dài. Thấy ở Guyan.

   Chứa ancaloit là curarin và curin.

C. CHẾ CURARƠ

Trước hết người ta nạo lấy vỏ cây (chỉ có vỏ là có tác dụng). Dùng cối xay nhỏ vỏ còn tươi, thêm nước vào, khuấy đều và lọc rồi cô lửa nhẹ trong nồi đất nung; thỉnh thoảng nếm thử xem đã đắng chưa, độ đắng nhiều tức là đủ độc.

Ngoài ra người ta còn thêm vào một số lá hay nhựa một số cây khác cho có chất dính vào mũi tên. Thường bao giờ trước khi chế xong hay khi mua về để đem bắn, người mua cũng thử độ độc trên chim hay trên ếch. Con vật có chết ngay curarơ mới là loại tốt.

Phân loại curarơ: Sau khi chế xong người ta đựng curarơ vào những dụng cụ khác nhau tùy theo từng vùng; trên cơ sở hình dạng thức đựng và nguồn gốc cây khác nhau người ta chia curarơ thành curarơ đựng trong ống (tubocurare), curarơ đựng trong lọ, curarơ đựng trong bầu; có khi người ta lại phân biệt curarơ từng địa phương khác nhau.

Hiện nay người ta chia curarơ ra làm 4 loại:

    1. Protocurarơ hay curarơ vùng Amazone thường đựng trong lọ đất nung hình dạng và kích thước thay đổi, loại xuất cảng thường đóng lọ tới 200g. Theo Weddell loại protocurarơ này chế từ cây Strychnos castelnaei có thêm cây Cocculus toxiferus, 3 loại cây thuộc chi Piper, 2 cây họ Mộc hương (Arestolochiaceae), một cây họ Ngũ gia bì (Araliaceae) và một cây họ Thương lục (Phytolaccaceae).

   Tuy nhiên cũng vùng này, lại có một công thức khác chế từ cây Strychnos castelnaei phối hợp với Strychnos yapuronsis và một cây họ Ráy (Araceae).

   2. Curarơ vùng Orenoque Thượng (Venezuela) loại này yếu, chứa trong bầu từ 60 đến 150g. Theo A. Gaillard, curarơ này chế từ Strychnos gubleri thêm S. curare, S. rouhamon. Muốn cho mạnh hơn, người ta còn chế bằng Strychnos toxifera.

   3. Curarơ vùng Guyan (Anh) chứa trong bầu; có 2 dạng: một loại để bắt chim, sức yếu hơn chế từ Strychnos gubleri; một loại mạnh để săn thú lớn và chống ngoại xâm chế từ Strychnos toxifera.

   4. Curarơ vùng Guyan (Pháp) còn mang tên tubocurare đựng trong ống tre dài 20-25cm chứa 200 đến 300g curarơ. Người ta cho rằng loại này chế từ Strychnos crevauxii. Vì nơi xuất cảng là Para cho nên còn gọi là paracurarơ.

   Curarơ thường là loại cao đặc màu đen nhạt hay nâu đỏ nhạt, vỡ hay đập thì vết vỡ bóng, có thể tán vụn thành một màu nâu vàng nhạt.

   Phần lớn tan trong nước để cho một dung dịch axit màu đỏ sẫm, tan trong cồn, không tan trong ête, mùi đặc biệt, vị rất đắng. Soi kính hiển vi, curarơ, đặc biệt loại tubocurarơ có những tinh thể dài có khi mắt thường cũng nhìn rõ. Độ độc thay đổi tùy theo từng loại curarơ. Chỉ có cách thử trên súc vật.

D. TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA CURARƠ

Việc nghiên cứu thành phần hóa học của curarơ hiện nay đã đạt một số kết quả đáng kể. Trên cơ sở thành phần hóa học đã nghiên cứu được, người ta đã chế một số chất tổng hợp có tác dụng của curarơ.

Tuy nhiên việc nghiên cứu còn cần tiếp tục nhiều và còn gặp khó khăn vì nguồn gốc những cây cho curarơ rất thay đổi; tại nhiều nơi còn cho cả rắn rết, cóc hay những chất thối rữa vào; tại một vùng mỗi lần bán cũng không giống nhau, số lượng lại không có được nhiều để nghiên cứu.

Hiện nay người ta cho rằng hoạt chất của curarơ do 2 loại ancaloit: curarin và curin.

IMG

Curin là những amin bậc 3, dẫn xuất của nhân quinolein có gắn metoxy không có tác dụng curarơ; nhưng khi chịu tác dụng của iođua metyl thì biến thành amin bậc 4 và có tác dụng của curarơ giống như curin thiên nhiên.

Trong nhóm này có curin, protocurin, protocuridin, neoprotocuridin. Những chất này thường ít độc, có tinh thể, không màu hay hơi có màu, khó tan trong nước, khi thêm amoniac vào dung dịch nước thì có tủa.

Curarin độc tính cao, là những dẫn xuất amin bậc 4, thường là những bột vô định hình, màu vàng nâu, hay đỏ, tan trong nước; dung dịch trong nước khi thêm aminiac không bị tủa.

Thuộc nhóm này có curarin, tubocurarin, protocurarin, toxiferin, d-tubocurarin (do King chiết từ một loại tubocurarơ ra năm 1935 và đến 1943 Wintesteines và Dutcher chiết từ cây Chondrodendron tomentosum).

Công thức của d-tubocurarin đã được xác định trong những năm gần đây là một dẫn xuất của di-benzyl isoquinolein, trong đó có 2 nhóm amon bậc 4.

E. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Curarơ gây liệt cơ làm cơ mềm giãn. Tác dụng này có tính chất ngoại vi và do sự dẫn truyền của luồng thần kinh tới cơ vân bị ngừng trệ, còn sự dẫn truyền của thần kinh không bị ảnh hưởng, sự co cơ do kích thích trực tiếp cũng không bị ảnh hưởng.

Trên ếch, sau khi tiêm curarơ vào thì con vật bị liệt, những động tác tự phát bị mất trước rồi đến những cử động phản xạ, tim vẫn tiếp tục đập. Ngược lại trong cùng điều kiện, những loài vật có vú chết ngạt do cơ hô hấp bị liệt.

Tác dụng của curarơ trên những cơ khác nhau; không có cùng một tốc độ và cũng không cùng một cường độ. Trên người, trước hết ta thấy cơ mặt liệt trước, rồi đến cơ của chi trên, chi dưới, cơ bụng, ngực và cuối cùng tới hoành cách mô. Lúc này cử động hô hấp bị ngừng và chết do ngạt, nếu người ta không áp dụng hô hấp nhân tạo.

Chúng ta cũng đã biết rằng curarơ uống không gây độc do chất curarơ bị phá hủy ở dạ dày và bị bài tiết rất mau qua nước tiểu; saponin và natri oleat Curin giúp sự hấp thụ của curarơ và gây độc; nhưng nếu curarơ vào máu thì gây ngộ độc ngay. Thịt những thú rừng bị tên tẩm curarơ làm chết vẫn ăn được.

G. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cho tới năm 1940-1942 tác dụng của curarơ chỉ có giá trị về mặt lý thuyết; người ta căn cứ vào tác dụng dược lý của nó để dùng điều trị một số bệnh như uốn ván, động kinh, ngộ độc do mã tiền hay stricnin nhưng không có kết quả.

Gần đây người ta dùng curarơ để bổ trợ cho gây mê: nó làm cho cơ mềm và giúp ta giảm khỏi phải gây mê quá sâu trong một số trường hợp phẫu thuật, do đó ta có thể tránh sốc và tránh một số biến chứng sau phẫu thuật kéo dài, đánh mê kéo dài.

Việc sử dụng curarơ rất cần thiết trong những trường hợp phẫu thuật bụng, chấn thương cần tránh sốc, những người yếu mệt, có tuổi hay suy mòn.

Thường người ta dùng d-tobocurarơ với liều 10-20mg (tiêm bắp) hoặc 10-15mg tiêm mạch. Khi dùng cần có thuốc đề phòng chống liệt hô hấp.

Ở Nam Mỹ người ta dùng muối để chữa ngộ độc do curarơ.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây nhót tây
09/04/2025 11:45 CH

- 枇杷葉 (枇杷叶). Còn có tên là phì phà (Cao Bằng), nhót Nhật Bản, tỳ bà diệp. Tên khoa học Eriobotrya japonica Lindl. Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Tỳ bà diệp (Folium Eriobotryae) là lá khô của cây nhót tây hay tỳ bà.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mộc hoa trắng - 止瀉木 (止泻木). Còn gọi là cây sừng trâu, cây mức lá to, thừng mực to lá, mức hoa trắng, mộc vài (Thổ), míc lông. Tên khoa học Holarrhena antidysenteria Wall (Echites antidysenterica Roxb, Wrightia antidysenterica Grah.). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Ta dùng hạt và vỏ cây mộc hoa trắng.
Mộc hương - 木香. Trên thị trường có nhiều loại mộc hương, nhưng sau đây là 2 vị chính: (1) Quảng mộc hương còn gọi là vân mộc hương (Radix Saussureae lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây vân mộc hương (Saussurealappa lappa Clarke) thuộc họ Cúc (Compositae). (2) Thổ mộc hương còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii) là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ mộc hương (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc (Composiae). Ngoài ra còn một số cây khác cũng cho vị mộc hương cùng thuộc họ Cúc như vị xuyên mộc hương mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook. f., nhưng có tác giả lại xác định là Jurinea aff. souliel Franch.
Móc mèo núi - 大托葉雲實 (大托叶云实). Còn gọi là vuốt hùm, bonduc, cni- quier, pois - quenique, yeux de chat. Tên khoa học Caealpinia bon du-cella Flem. Thuộc họ Vang (Caesalpinceae).
Mộc nhĩ - 木耳. Còn gọi là nấm tai mèo. Tên khoa học Auricularia polytricha Sacc. Thuộc họ Mộc nhĩ (Auriculariaceae).
Mộc qua - 木瓜. Tên khoa học Chaenomeles lagenaria (Lois.) Koidz (Cydonia lagenaria Lois.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Mộc qua (Fructus Chaenomelis lagenariae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây mộc qua (Chaenomeles lagenaria).
Mộc tặc - 木贼. Còn gọi là tiết cốt thảo, mộc tặc thảo, bút đầu thái, cỏ tháp bút. Tên khoa học Equisetum arvense L. Thuộc họ Mộc tặc (Equisetaceae). Mộc tặc (Herba Equiseti arvensis) là toàn cây mộc tặc phơi khô. Vì cây có đốt lại ráp, dùng để đánh gỗ cho nhẵn, do đó có tên là mộc tặc ("mộc" là gỗ, "tặc" là giặc, giặc đối với gỗ).
Mộc thông - 木通. Mộc thông là một vị thuốc ta vừa nhập của Trung Quốc, vừa khai thác trong nước. Nhưng ngay mộc thông của Trung Quốc cũng không thống nhất. Người ta đã thống kế, phát hiện thấy hơn 10 loại cây khác nhau, thuộc các họ thực vật khác nhau, chủ yếu thuộc 2 họ: Mộc hương (Aristolochiaceae), Mao lương (Rauunculaceae) cho vị thuốc mang tên mộc thông. Tại Việt Nam, cũng có mấy cây khai thác với tên mộc thông. Khi sử dụng cần chú ý theo dõi. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cây thường được dùng nhất. Vị mộc thông, nguyên gọi là thông thảo, vì có lỗ nhỏ ở hai đầu nên gọi tên như vậy ("mộc" là gỗ, "thông" là thông qua).
Móng lưng rồng - 九死還魂草 (九死还魂草). Còn gọi là chân vịt, quyển bá, vạn niên tùng, kiến thủy hoàn dương, hồi sinh thảo, trường sinh thảo, cải tử hoàn hồn thảo, hoàn dương thảo, nhả mung ngựa (Thái), thạch bá chi. Tên khoa học Selaginella tamariscina (Beauv.) Spring. Thuộc họ Quyển bá (Selaginellaceae).
Mù u - 海棠油. Còn gọi là đồng hồ, khung tung, khchyong (Cămpuchia). Tên khoa học Calophyllum mophyllum L. (Balsamaria inophyllum Lour.). Thuộc họ Măng cụt (Guttiferae).
Mùi tây - 歐芹 (欧芹). Còn gọi là rau pecsin, persil. Tên khoa học Petroselinum sativum Hoff. (Carum petroselinum Benth. et Hoof. f). Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae).
Muống biển - 馬鞍藤 (马鞍藤). Tên khoa học Ipomoea biloba Forsk, (Ipomoea maritima R. Br., Convolvulus pescaproe L. Batatas maritima Bojer.). Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Muồng trâu - 翅荚决明, 对叶豆. Còn gọi là trong bhang, ana drao bhao (Buôm mê thuột), dâng het, tâng hét, dang hét khmoch (Campuchia) khi lek ban (Lào). Tên khoa học Cassia alata L., (Cassia bracteata L., Cassia herpetica Jacq.). Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Muồng truổng - 簕欓花椒. Còn gọi là màn tàn, sen lai, tần tiêu, buồn chuồn, mú tương, cam. Tên khoa học Zanthoxylum avicennae (Lamk.) DC (Fagara avicennae Lamk., Zanthoxylum herculis Lour.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Mướp - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là mướp hương, ty qua, thiên ty qua, bố ty, ty lạc. Tên khoa học Luffa cylindrica (L. ) Roem, (Momordica cylindrica L.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Mướp đắng - 苦瓜. Còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường-Thanh Hóa). Tên khoa học Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Na - 番荔枝. Còn gọi là sa lê, mãng cầu, mãng cầu giai, mãng cầu ta, phan lệ chi. Tên khoa học Annona squamosa L. Thuộc họ Na (Annonaceae).Cây na cho ta các bộ phận sau đây dùng làm thuốc: Lá, hạt và quả.
Nấm hương - 香菇. Còn gọi là bioc hom, lét lang. Tên khoa học Lentinus edodes (Berk.) Sing.; Agaricus rhinonensis Berk. Thuộc họ Nấm tán Polyporaceae (Pleurotaceae).
Náng hoa trắng - 文殊蘭 (文殊兰). Còn gọi là cây lá náng, văn thù lan, hoa náng, chuối nước, thập bát học sĩ (Quảng Châu Trung Quốc). Tên khoa học Crinum asiticum L. (Crinum toxicarium Roxb.). Thuộc họ Thuỷ tiên (Amaryllidaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]