Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CAM THẢO DÂY - 相思藤

Còn gọi là tương tư tử, tương tự đậu, tương tư đằng, dây cườm, dây chi chi, ang krang, angkreng (Cămpuchia).

Tên khoa học Abrus precatorius L. (Abrus minor et pauciflorus., Glycine abrus L.).

Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).

CAM THẢO DÂY, 相思藤, tương tư tử, tương tự đậu, tương tư đằng, dây cườm, dây chi chi, ang krang, angkreng, Abrus precatorius L., Abrus minor et pauciflorus., Glycine abrus L., họ Cánh bướm Fabaceae, Papilionaceae

Dây cam thảo - Abrus precatorius

Dây cam thảo cho những bộ phận dùng làm thuốc sau đây:

1. Rễ và lá dùng thay cam thảo bắc ở nhiều nước, do đó còn có tên liane rélisse (dây cam thảo), réglisse d'Amérique (cam thảo châu Mỹ), réglisse indienne (cam thảo Ấn Độ).

2. Hạt là tương tư tử - Semen Abri (Semen Jequiriti).

A. MÔ TẢ CÂY

Dây cam thảo là một loại dây leo, cành gầy nhỏ, thân có nhiều xơ.

Lá kép hình lông chim, cả cuống dài 15-24cm, gồm 8-20 đôi lá chét, cuống chung ngắn, cuống lá chét càng ngắn hơn, phiến lá chét hơi hình chữ nhật dài 5-20mm, rộng 3-8mm.

Hoa màu hồng mọc thành chùm nhỏ ở kẽ lá hay đầu cành. Cánh hoa hình cánh bướm.

Quả thon dài 5cm, rộng 12-15mm, dày 7-8mm, mặt có lông ngắn. Hạt từ 3 đến 7, hình trứng, vỏ rất cứng, bóng, mùa đỏ với một điểm đen lớn quanh tễ.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Dây cam thảo mọc hoang và được trồng ở khắp nơi. Tại Hà Nội người ta bán thành từng bó dây và lá cam thảo. Rễ của dây cam thảo ít thấy ở thị trường. Hạt ít thấy bán hơn.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Rễ và lá dây cam thảo chứa một chất ngọt tương tự như glyxyrizin có trong rễ cam thảo bắc. Tuy nhiên lượng chất ngọt này rất ít lại có vị khó chịu và đắng. Tỷ lệ chất này chỉ có 1-2% (Đỗ Tất Lợi, 1960).

Hạt: Chứa một chất protit độc gọi là abrin C12H14N2O2, chất abralin H13H14O7 là một glucozit có tinh thể, men tiêu hóa chất béo lipaza 2,5% chất béo, chất henagglutinin làm vón máu, và nhiều men ureaza.

IMG

Vỏ ngoài hạt có sắc tố màu đỏ.

Có tài liệu nói có axit abrussic.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Chất abrin là một protit độc, thuộc nhóm phytotoxin, nhưng so sánh với chất rixin (protit lấy ở hạt thầu dầu) thì kém độc hơn. Tuy nhiên tác dụng cũng gần giống nhau: Abrin có tính chất một kháng nguyên (antigene) vào cơ thể có thể gây trong cơ thể một chất kháng thể (anticorps). Tác dụng focmon lên abrin, ta có một chất anatoxin; chất anntoxin cũng gây trong cơ thể chất kháng thể.

Chất abrin chịu tác dụng của men pepsin của dạ dày khỏe hơn chất rixin. Abrin gây vón hồng cầu một cách dễ dàng.

Khi nhỏ vài giọt dung dịch abrin vào kết mạc mắt, sẽ gây phù tấy kết mạc và gây hại tới giác mạc một cách vĩnh viễn, do đó khi dùng điều trị đau mắt bằng hạt này như kinh nghiệm trong nhân dân cần hết sức thận trọng.

Ta có thể chiết chất abrin như sau: Sắc hạt hoặc pha nước sôi với hạt, lọc lấy nước rồi cho vào cồn để kết tủa. Sấy khô.

Độ độc của hạt dây cam thảo được một số dân tộc vùng Tây Ấn Độ dùng đầu độc: Ngâm hạt với nước, giã nát, thêm ít dầu vào, nặn thành những mũi nhọn, khi những mũi nhọn này đâm vào da, gây loét tại chỗ, ngấm vào máu và gây chết trong 48 giờ.

Tuy nhiên theo một số tác giả, thì hạt cây không độc vì tại Ai Cập, có người dùng hạt này để ăn, hoặc trẻ con tại một số bến tàu ở châu Âu hay chơi hạt này, nhiều khi nhỡ ăn phải mà không chết.

Nhưng cần chú ý là trẻ con nuốt phải hạt nguyên không nhai vỡ nát, hoặc ăn thì phải nấu chín mà chất độc abrin thì có thể bị nhiệt làm giảm độc.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

1. Rễ, thân và lá được nhân dân nhiều nước châu Mỹ, châu Âu, châu Á dùng thay vị cam thảo bắc trong các đơn thuốc.

Tuy nhiên do hoạt chất không giống nhau hẳn, cho nên việc thay thế chưa hoàn toàn hợp lý. Nên chú ý trồng cây cam thảo bắc để dùng.

Tại Xênêgan, những người ca hát thường nhai lá cây này cho ngọt giọng.

Tại đông châu Phi, một số dân tộc dùng lá chữa rắn độc cắn.

2. Hạt thường dùng ngoài làm thuốc sát trùng: Giã hạt cho nhỏ, đắp lên chỗ đau. Tuy nhiên có độc cần chú ý.

Trước đây người ta hay dùng hạt này chữa bệnh đau mắt hột, đau mắt thường: 3 đến 5 hạt, giã nát ngâm với 1 lít nước. Ngày nhỏ vào mắt 3 lần thuốc này. Khi mới dùng thuốc gây phản ứng, nhưng sau 48 giờ phản ứng bớt. Sau 1 tuần giác mạc trở lại bình thường. Thuốc để lâu không có tác dụng cho nên dùng đến đâu chế đến đó.

Tuy nhiên thuốc có độc, gây phù tấy kết mạc, do đó về sau người ta không dùng nữa.

Chú ý:

Đừng nhầm hạt dây cam thảo kể trên với hạt cây kiền kiện hay trách quạch (Adenanthera pavonina L.) thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae).

Cây này là một cây to, cao chừng 20m. Lá 2 lần kép lông chim; cuống chung to khỏe, dài 40cm hay hơn. Lá chét 6 đôi và một lá chét tận cùng, kích thước không giống nhau tùy theo mọc ở cao hay ở thấp. Cụm hoa mọc thành bông dài 15mm. Quả hình liềm dài 15-20cm, rộng 15mm khi mở ra, thì vặn vào nhau như lò xo. Hạt nhìn thấu kính, 2 mặt phình lên, mầu đỏ bóng. Mùa hoa: Tháng 2-3, mùa quả: tháng 6-7.

Chú ý hạt cây này màu đỏ tuyền, còn hạt dây cam thảo nửa đỏ, nửa đen, ở giữa nửa đen có tễ của hạt.

Trong hạt cây này có khoảng 25% dầu, 30% chất protit.

Tại Việt Nam chúng tôi chưa thấy ai dùng hạt cây này làm thuốc. Trẻ con thường dùng chơi như chơi hạt dây cam thảo.

Tại các nước khác người ta dùng hạt làm thuốc, ở Giava, giã hạt đắp lên mụn nhọt để cho chóng vỡ mủ, chữa nhức đầu tê thấp. Tại Ấn Độ và Malaixia lá sắc uống chữa tê thấp, gỗ làm thuốc bổ. Tại Cămpuchia vỏ cây dùng chữa lỵ, với tên vỏ cây chan trey, mon trey.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Thạch tín
07/07/2025 09:15 CH

- 信石. Còn gọi là tín thạch, nhân ngôn, phê thạch, hồng phê, bạch phê. Tên khoa học Arsennicum. Thạch tín còn gọi chệch là nhân ngôn vì chữ tín gồm một bên chữ nhân, một bên chữ ngôn. Thường người ta dùng chữ thạch tín để chỉ chất As2O3 thiên nhiên, thường c...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Châu thụ - 芳香白珠. Còn gọi là lão quan thảo (Sìn hồ, Lai Châu). Tên khoa học Gaultheria fragrantissima Wall. (Gaultheria fragrans Don). Thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae).
Chay - 胭脂樹 (胭脂树). Còn gọi là Cây chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Chè vằng - 茉莉. Còn gọi là chè cước man, dây cẩm văn, cây dâm trắng, cây lá ngón, dây vắng, mổ sẻ. Tên khoa học Jasminum subtriplinerve Blume. Thuộc họ Nhài (Oleaceae). Nhiều người gọi nhầm cây chè vằng là cây lá ngón, nhưng một cây có hoa vàng (lá ngón thật), một cây kia hoa trắng, ngoài ra còn một số điểm khác cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Chỉ cụ - 枳椇. Còn gọi là khúng kháng (Cao Bằng, Lạng Sơn), vạn thọ, kê trảo. Tên khoa học Hovenia dulcis Thunb. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Chỉ thiên - 地膽草 (地胆草). Còn gọi là cỏ lưỡi mèo, địa đảm đầu, địa đảm thảo, bồ công anh, khổ địa đảm. Tên khoa học Elephantopus scaber L. (Scabiosa cochinchinensis Lour., Astercocephalus cochinchinensis Spreng.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tên thông thường của cây này là chỉ thiên, tuy nhiên, tại một số vùng Nam Bộ, và Trung Bộ người ta gọi là cây lưỡi mèo. Một số người ở miền Nam dùng với tên bồ công anh. Tại một số tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Tây), người ta cũng dùng cây này với tên bồ công anh (xem vị này), cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Chỉ thực - 枳實 (枳实). Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác. Tên khoa học Citrus sp. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturii) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam quít (Rutaceae) nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau. Chỉ thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả). Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.
Chìa vôi - 白粉藤. Còn gọi là bạch liễm, đau xương, bạch phấn đằng. Tên khoa học Cissus modeccoides Planch. [Cissus vitiginea Lour. (non L.) C. triloba merr., Callicarpa triloba Lour.]. Thuộc họ Nho (Ampelidaceae).
Chìa vôi - 盒果藤. Còn gọi là bình vôi, bặch phấn đằng, turbith vegetal. Tên khoa học Ipomoea turpethum R. Br., Operculina turpethum (L) Silva Manso. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Chim sẻ - 麻雀. Tên khoa học Passer montanus malaccensis Dubois. Thuộc họ Sẻ (Ploceidae). Con chim sẻ cho ta vị thuốc mang tên bạch đinh hương còn có tên ma tước phần, hùng tước xí - Faeces Passerum - là phân khô của con chim sẻ.
Chó - 狗. Tên khoa học Canis familiaris L. Thuộc họ Chó (Canidae). Con chó cho các vị thuốc: (1) Cầu nhục - Thịt chó; (2) Cẩu thận - Penis et testis canis - là dương vật và tinh hoàn của con chó; (3) Cẩu bảo - Calculus Canis - là sỏi trong dạ dày của chó có bệnh.
Chó đẻ răng cưa - 葉下珠 (叶下珠). Còn gọi là diệp hạ châu, diệp hòe thái, lão nha châu, prak phle (Cămpuchia). Tên khoa học Phyllanthus urinaria L. (Phyllanthus cantoniensis Hornem.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Chóc gai - 刺芋. Còn có tên là ráy gai, sơn thục gai, cây cừa, cây móp (Nam Bộ). Tên khoa học Lasia spinosa Thwaites. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Chu sa - Thần sa - 朱砂, 辰砂. Còn gọi là châu sa, đơn sa. Tên khoa học Cinnabaris. Chu sa và thần sa cùng là một loại thuốc có thành phần hóa học giống nhau, nhưng loại chu sa nguồn gốc ở tỉnh Hồ Nam Trung Quốc (xưa kia vùng này gọi là châu Thần cho nên có tên thần sa là thứ đá ở châu Thần) được coi là tốt hơn. Sự đánh giá này trên thực tế là đúng và hiện nay ta tìm được cơ sở khoa học của sự đánh giá đó. Chu là đỏ, sa là đá (châu là chữ chu đọc chệch). Vì châu sa là một tảng đá có màu đỏ. Đơn cũng là màu đỏ.
Chùa dù - 四方蒿. Còn gọi là tả hoàng đồ (Lào cai) Dê sua tùa. Tên khoa học Elsholtzia blanda Benth., E. penduliflora W. Smith. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Chua me đất hoa vàng - 酢浆草. Còn gọi là tạc tương thảo, toàn tương thảo, toàn vị thảo, toan vị vị, chua me bá chìa, tam diệp toan. Tên khoa học Oxalis corniculata L. (Oxalis repens Thunb, Oxalis javanica Blume). Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaceae).
Chút chít - 酸模, 刺酸模. Còn gọi là trút trít, lưỡi bò, ngưu thiệt, dương đề. Tên khoa học Rumex wallichii Meisn. Rume sinensis (Rumex maritimus Hook). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Dương là dê, đề là gót, vì rễ cây giống chân dê do đó có tên. Lưỡi bò hay ngưu thiệt (cũng có nghĩa là lưỡi bò hay lưỡi trâu) vì lá cây giống lưỡi bò. Trẻ con thường cọ 2 lá vào nhau, làm phát ra tiếng kêu "chút chít" do đó thành tên.
Cỏ bạc đầu - 猴子草. Còn gọi là cỏ nút áo, smao kak kdam (Camupuchia). Tên khoa học Kyllinga monocephala Rottb. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Cỏ bợ - 蘋, 田字草. Còn gọi là tần, tứ diệp thảo, điền tự thảo, phá đồng tiền, dạ hợp thảo, phak vèn (Lào - Vientian). Tên khoa học Marsilea quadrifolia L. (Lemna quadrifolia Desr. Pteris quadrifoliata L.). Thuộc họ Tần (Marsileaceae), bộ Dương xỉ (Hydropterides).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]