Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÀ CUỐNG - 桂花蝉

Còn gọi là sâu quế, đà cuống.

Tên khoa học Belostoma indica Vitalis (Lethocerus indicus Lep).

CÀ CUỐNG, 桂花蝉, sâu quế, đà cuống, Belostoma indica Vitalis, Lethocerus indicus Lep

Cà cuống - Belostoma indica

A. MÔ TẢ CON VẬT

Cà cuống là một loại côn trùng khi non gần giống như con dán, mình dài 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ, với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt, có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng.

Khi mổ cà cuống, ta sẽ thấy cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước này là 2 ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Nếu lấy tay rút mạnh 2 ngòi này thì cả bộ tiêu hóa của cà cuống có thể bị lòi ra ngoài.

Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài 2-3cm, rộng 2-3mm, màu trắng, trong chứa một chất lỏng thơm, đó chính là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến này phát triển.

B. PHÂN BỐ, THU BẮT VÀ CHẾ BIẾN

Cà cuống sinh sống ở dưới nước, tại các ruộng sâu, hồ ao, sông lạch. Khi cà cuống đậu ở dưới nước, thường bám vào một cây cỏ, đầu chúc xuống, đuôi chổng lên, để thò lên mặt nước cái đuôi, tức là một bộ phận có thể hút được khí trời cần cho sự hô hấp và bơi lội của cà cuống. Nằm như vậy cà cuống cũng ở thế đợi mồi. Cà cuống sống bằng trứng cá và các loài nhuyễn thể.

Mùa cà cuống vào tháng 10 âm lịch sau vụ gặt lúa mùa ở các đồng ruộng, hồ ao. Tháng 7-8, ban đêm cà cuống thường bay vào nơi đèn sáng.

Cà cuống có cả ở miền Nam và miền Bắc nước ta, nhưng nhiều nhất trước đây là ở miền Bắc do cà cuống ưa khí hậu nóng nực như lại có mùa rét. Những năm gần đây phải chăng vì dùng quá nhiều loại thuốc trừ sâu mà số cà cuống giảm sút hẳn.

Muốn lấy dầu cà cuống, người ta úp bụng cà cuống xuống phía dưới để phía lưng lên, lấy một que tre đầu vót nhọn, đem rạch ngang lưng nơi tiếp giáp với ngực, nghĩa là ở vị trí đôi chân thứ ba, sau đó gập bụng cà cuống xuống, tức khắc hai cái bọng dầu cà cuống sẽ lòi lên phía trên. Lấy đầu tre nhọn khều hai cái bọng này ra, dùng ngón tay khẽ bỏ bọng này vào bát hay chén. Khi được nhiều bọng, sẽ chích bọng cho dầu thoát ra khỏi bọng. Vỏ bọng sẽ được loại bỏ đi, nếu không loại bỏ, để lâu dầu cà cuống sẽ có mùi hôi.

Tinh dầu cà cuống là một chất lỏng trong như nước lọc. Để ngoài không khí rất dễ bay hơi do đó dầu cà cuống cần đựng trong lọ nhỏ, nút kín. Tùy theo con to nhỏ, tinh dầu nhiều ít. Trung bình một con cho 0,02ml, 1.000 con đực mới thu được chừng 20ml.

Sau khi lấy bọng dầu đi rồi, cà cuống còn lại đem bỏ cánh, bỏ chân rồi cho vào nồi hấp cách thủy mà ăn. Cũng có thể xào với mỡ mà ăn. Có người dùng làm nhân bánh chưng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Năm 1957, với 3ml tinh dầu cà cuống Adolf Butenandt và Nguyễn Đăng Tâm đã nghiên cứu thấy tinh dầu cà cuống tan trong mỡ, độ sôi 168-170º, chỉ số khúc xạ n25D = 1,4160, tính chất không bị thay đổi khi chưng cất. Quang phổ hồng ngoại thể hiện ở 5,80 một dải đặc hiệu của este của axit cacbonic và đã xác định chất thơm của dầu cà cuống là một hexenol axetat có công thức thô là C6H11O COCH3, cấu trúc của chất thơm này là một trans 2-hexenl-olaxetat.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Đối với bản thân con cà cuống thì khi kiếm mồi cà cuống gặp cá lớn sẽ lao mình theo bám lấy, tìm chỗ huyệt châm ngòi chích tinh dầu vào, tức thì con mồi bị tê liệt, lăn kềnh ra, cà cuống cứ việc bám vào mà hút máu, hoặc khi cà cuống bị con vật khác đuổi thì sẽ phun chất tinh dầu này làm cho kẻ địch ngửi thấy mùi phải rút lui.

Đến mùa sinh nở cà cuống đực tiết tinh dầu làm cho cà cuống cái ngửi thấy sẽ ngoi theo và đôi cà cuống đực cái sẽ tìm nơi yên ổn mà giao phối.

Trên thực nghiệm, dùng với liều nhỏ thì có tác dụng kích thích thần kinh và hưng phấn bộ phận sinh dục, nhưng dùng với liều cao có thể gây ngộ độc.

Trong nhân dân thường dùng dầu cà cuống với liều rất nhỏ khi ăn những thức ăn nhiều mỡ, thịt như bánh cuốn, bún thang.

Hiện nay bên cạnh tinh dầu cà cuống thiên nhiên, người ta đã tổng hợp một số tinh dầu cà cuống nhân tạo, nhưng mùi vị không hoàn toàn giống với tinh dầu cà cuống thiên nhiên.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cá trắm
26/06/2025 11:46 CH

- 青魚 (青鱼). Còn gọi là thanh ngư. Tên khoa học Mylopharyngodon piceus (cá trắm đen), Ctenopharyngodon idellus (cá trắm cỏ). Thuộc bộ phụ Cá chép (Cyprinoidei).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Châu thụ - 芳香白珠. Còn gọi là lão quan thảo (Sìn hồ, Lai Châu). Tên khoa học Gaultheria fragrantissima Wall. (Gaultheria fragrans Don). Thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae).
Chay - 胭脂樹 (胭脂树). Còn gọi là Cây chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Chè vằng - 茉莉. Còn gọi là chè cước man, dây cẩm văn, cây dâm trắng, cây lá ngón, dây vắng, mổ sẻ. Tên khoa học Jasminum subtriplinerve Blume. Thuộc họ Nhài (Oleaceae). Nhiều người gọi nhầm cây chè vằng là cây lá ngón, nhưng một cây có hoa vàng (lá ngón thật), một cây kia hoa trắng, ngoài ra còn một số điểm khác cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Chỉ cụ - 枳椇. Còn gọi là khúng kháng (Cao Bằng, Lạng Sơn), vạn thọ, kê trảo. Tên khoa học Hovenia dulcis Thunb. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Chỉ thiên - 地膽草 (地胆草). Còn gọi là cỏ lưỡi mèo, địa đảm đầu, địa đảm thảo, bồ công anh, khổ địa đảm. Tên khoa học Elephantopus scaber L. (Scabiosa cochinchinensis Lour., Astercocephalus cochinchinensis Spreng.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tên thông thường của cây này là chỉ thiên, tuy nhiên, tại một số vùng Nam Bộ, và Trung Bộ người ta gọi là cây lưỡi mèo. Một số người ở miền Nam dùng với tên bồ công anh. Tại một số tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Tây), người ta cũng dùng cây này với tên bồ công anh (xem vị này), cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Chỉ thực - 枳實 (枳实). Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác. Tên khoa học Citrus sp. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturii) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam quít (Rutaceae) nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau. Chỉ thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả). Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.
Chìa vôi - 白粉藤. Còn gọi là bạch liễm, đau xương, bạch phấn đằng. Tên khoa học Cissus modeccoides Planch. [Cissus vitiginea Lour. (non L.) C. triloba merr., Callicarpa triloba Lour.]. Thuộc họ Nho (Ampelidaceae).
Chìa vôi - 盒果藤. Còn gọi là bình vôi, bặch phấn đằng, turbith vegetal. Tên khoa học Ipomoea turpethum R. Br., Operculina turpethum (L) Silva Manso. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Chó đẻ răng cưa - 葉下珠 (叶下珠). Còn gọi là diệp hạ châu, diệp hòe thái, lão nha châu, prak phle (Cămpuchia). Tên khoa học Phyllanthus urinaria L. (Phyllanthus cantoniensis Hornem.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Chóc gai - 刺芋. Còn có tên là ráy gai, sơn thục gai, cây cừa, cây móp (Nam Bộ). Tên khoa học Lasia spinosa Thwaites. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Chu sa - Thần sa - 朱砂, 辰砂. Còn gọi là châu sa, đơn sa. Tên khoa học Cinnabaris. Chu sa và thần sa cùng là một loại thuốc có thành phần hóa học giống nhau, nhưng loại chu sa nguồn gốc ở tỉnh Hồ Nam Trung Quốc (xưa kia vùng này gọi là châu Thần cho nên có tên thần sa là thứ đá ở châu Thần) được coi là tốt hơn. Sự đánh giá này trên thực tế là đúng và hiện nay ta tìm được cơ sở khoa học của sự đánh giá đó. Chu là đỏ, sa là đá (châu là chữ chu đọc chệch). Vì châu sa là một tảng đá có màu đỏ. Đơn cũng là màu đỏ.
Chùa dù - 四方蒿. Còn gọi là tả hoàng đồ (Lào cai) Dê sua tùa. Tên khoa học Elsholtzia blanda Benth., E. penduliflora W. Smith. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Chua me đất hoa vàng - 酢浆草. Còn gọi là tạc tương thảo, toàn tương thảo, toàn vị thảo, toan vị vị, chua me bá chìa, tam diệp toan. Tên khoa học Oxalis corniculata L. (Oxalis repens Thunb, Oxalis javanica Blume). Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaceae).
Chút chít - 酸模, 刺酸模. Còn gọi là trút trít, lưỡi bò, ngưu thiệt, dương đề. Tên khoa học Rumex wallichii Meisn. Rume sinensis (Rumex maritimus Hook). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Dương là dê, đề là gót, vì rễ cây giống chân dê do đó có tên. Lưỡi bò hay ngưu thiệt (cũng có nghĩa là lưỡi bò hay lưỡi trâu) vì lá cây giống lưỡi bò. Trẻ con thường cọ 2 lá vào nhau, làm phát ra tiếng kêu "chút chít" do đó thành tên.
Cỏ bạc đầu - 猴子草. Còn gọi là cỏ nút áo, smao kak kdam (Camupuchia). Tên khoa học Kyllinga monocephala Rottb. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Cỏ bợ - 蘋, 田字草. Còn gọi là tần, tứ diệp thảo, điền tự thảo, phá đồng tiền, dạ hợp thảo, phak vèn (Lào - Vientian). Tên khoa học Marsilea quadrifolia L. (Lemna quadrifolia Desr. Pteris quadrifoliata L.). Thuộc họ Tần (Marsileaceae), bộ Dương xỉ (Hydropterides).
Cô ca - 古柯. Tên khoa học Erythroxylon coca Lamk. Thuộc họ Cô ca (Erythroxylaceae). Tại một số nước châu Mỹ và miền Nam nước ta dưới thời Mỹ ngụy có lưu hành phổ biến một thứ nước uống mang tên côcacôla. Đối với nguyên liệu côla xin xem vị này, còn đối với côca vốn là nguyên liệu chế một chất ma túy tại sao lại đưa được vào thành nước uống? Việc sử dụng lá cô ca làm nguyên liệu chế nước uống giải khát cần chú ý những điểm gì? Bên cạnh vai trò nguyên liệu làm thuốc, dưới đây chúng tôi có đề cập đến những câu hỏi trên đây.
Cỏ chỉ - 鐵線草 (铁线草). Còn gọi là cỏ gà, cỏ ống. Tên khoa học Cynodon dactylon Pers. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Cỏ chỉ - cỏ ống (Rhizoma cynodoni) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây cỏ ống hay cây cỏ chỉ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]