Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

BẠCH ĐÀN VÀ TINH DẦU BẠCH ĐÀN - 藍桉 (蓝桉)

Còn gọi là cây khuynh diệp.

Tên khoa học Eucalyptus globulus Labill.

Thuộc họ Sim (Myrtaceae).

BẠCH ĐÀN, TINH DẦU BẠCH ĐÀN, 藍桉, 蓝桉, cây khuynh diệp, Eucalyptus globulus Labill., họ Sim, Myrtaceae

Bạch đàn - Eucalyptus globulus

Tên bạch đàn là tên có từ lâu ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh tên khuynh diệp là do mùi tinh dầu có mùi tinh dầu tràm; cây cũng có lá nghiêng cho nên đặt tên. Hiện nay, tên bạch đàn phổ biến hơn.

Tuy nhiên cần chú ý tên bạch đàn trước đây thường dành cho một cây khác có mùi thơm như trầm có tên là đàn hương, tên khoa học là Santalum album L. thuộc họ Đàn hương (Santalaceae), cây này chưa thấy có ở Việt Nam, trước đây ta vẫn dùng tinh dầu chữa bệnh lậu.

Eucalyptus globulus do chữ Hy Lạp eu là tốt, kalyptos là cái bao, vì nụ hoa có bao hình tròn; globulus là hình cầu vì quả có hình cầu.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây cao to, có thể cao tới 10m hay hơn. Cành non có 4 cạnh; Hai loại lá: Trên cây non hay cành non, lá mọc đối, gần như không cuống, phiến lá hình trứng hoặc giống hình trái tim, sắc lục, mỏng, như có sáp; dài 10-15cm, rộng 4-8cm; Trên cành cây già, lá mọc riêng biệt, so le, hình liềm, cuống ngắn, cong, phiến lá hẹp dài 16-25cm, rộng 2-5cm, cành già tròn, không cạnh. Phiến lá soi lên sáng thấy rõ những điểm trong trong, đó là những túi tinh dầu. Từ kẽ lá có những nụ hoa hình núm oản ngửa, có 4 cạnh tương ứng với 4 lá đài. Quả hình chén, phía trên có 4 ngăn, trong chứa ít hạt.

Ngoài cây bạch đàn kể trên, chúng ta còn di thực vào nhiều loài bạch đàn khác như bạch đàn trắng Eucalyptus camaldulenis (E. rostrata), bạch đàn lá nhỏ Eucalytus sereticornis (E. umbellata), bạch đàn long duyên Eucalyptus exserta, khi còn nhỏ cũng cho lá dễ nhầm với bạch đàn lá nhỏ; bạch đàn đỏ Eucalyptus robusta, bạch đàn chanh (có mùi thơm của chanh) Eucalyptus citriodora v.v...

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Bạch đàn vốn quê ở châu Úc, nhưng từ lâu bạch đàn được di thực vào nhiều nước trên thế giới từ chây Âu đến châu Á, châu Mỹ, châu Phi.

Vì cây này có bộ rễ ăn sâu, rộng, cây lại mọc nhanh (một cây trồng 7 năm đã có thể cao 20m), có khả năng hút nước trong đất rất mạnh cho nên thường được trồng ở những nơi vùng lầy, ẩm thấp để cải tạo những vùng này, làm giảm tỷ lệ bệnh sốt rét. Mùi thơm của lá cũng có tác dụng đuổi muỗi.

Tại nước ta, từ trên 40 năm trở lại đây, đã di thực một số ít cây trồng rải rác nhiều nơi như loại bạch đàn trắng ở vùng Đò Cầm (Nghệ An), và một vài nơi khác nữa, hiện nay đang được phổ biến rộng rãi. Còn cây Eucalyptus globulus thì rất ít gặp. Từ năm 1956 trở lại đây với phong trào trồng cây gây rừng, làm xanh đồi trọc, cây bạch đàn là một cây được trồng nhiều nhất để phủ xanh những đồi trọc tỉnh trung du như Vĩnh Phú, Bắc Thái v.v...

Ngoài công dụng trồng để lấy gỗ, bóng mát, ta đã bắt đầu khai thác bạch đàn để lấy lá dùng làm thuốc và cất tinh dầu làm thuốc. Để có thể sử dụng nhiều lá, theo kinh nghiệm của Trung Quốc, vào năm thứ 3 và thứ 7 chặt cây để lấy toàn bộ lá và gỗ nhỏ, những chồi mọc ra ta cũng sẽ cắt lấy lá và chỉ để lại 2 nhánh cho phát triển, cuối cùng cũng chỉ còn lại một chồi để thay thế cây cũ.

Để lấy làm thuốc, thường ta hái lá gần mùa hè, phơi trong râm, đến khô rồi đựng trong lọ hay túi kín. Chỉ những lá hình lưỡi liềm được dùng làm thuốc. Nên tránh hái lá non mặc dầu tỷ lệ tinh dầu trong lá non cao hơn.

Từ lá và cành non, ta có thể đem cất lấy tinh dầu để dùng thô hay tinh chế mà dùng.

Việc trồng bạch đàn chủ yếu do cán bộ lâm nghiệp phụ trách vì đây là một cây cho gỗ. Bạch đàn trồng bằng hạt hái vào những tháng thu đông (tháng 8 đến tháng 11). Để trồng bảo đảm, hạt thường được ngâm nước 30oC 24 giờ trước khi đem gieo, vớt ra để ráo. Sau khi cây con mọc trong vườn ươm được 5-7 tháng thì đem trồng ở nơi cố định. Những cây con đem trồng thường cao 0,30 đến 1m, đường kính thân từ 0,5 đến 1cm. Mùa gieo vào tháng 9-11, trồng vào tháng 2-4 hoặc gieo vào tháng 1-3, trồng vào tháng 7-9, lá thu hoạch ở những cây từ 3 năm trở lên.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Lá bạch dàn chứa tanin, nhựa và tinh dầu (3 đến 6% tính trên lá khô kiệt).

Tinh dầu bạch đàn màu vàng nhạt, rất lỏng, mùi thơm, vị lúc đầu mát sau nóng. Tỷ trọng 0,910-0,930, độ sôi 168-180oC. ((α)D = 0 đến +15 chỉ số chiết quang 1,457-1,469, cho dung dịch trong với 3 thể tích cồn 70oC, thành phần chủ yếu của tinh dầu là xineola hay eucalyptola hay cajeputola (60 đến 85%) kèm theo pinen quay phải, camphen, fenchen, các andehyt valeric và butyric.

Xineola hoạt chất chính của tinh dầu là một chất lỏng, không màu tỷ trọng 0,923-0,926, sôi ở 178oC, làm lạnh, kết tinh thành tinh thể chảy ở +1oC. Vì tỷ lệ xineola quyết định giá trị của tinh dầu cho nên các Dược điển thường hay quy định những phương pháp định lượng xineola.

Dược điển Pháp quy định phương pháp định lượng xineola căn cứ vào tính chất của xineola cho với orthocresola một chất có độ kết tinh thay đổi tuỳ theo tỷ lệ xineola. Nếu toàn bộ tinh dầu xineola thì hỗn hợp kết tinh ở 56o6 nếu tỷ lệ xineola trong tinh dầu là 39% thì độ kết tinh của hỗn hợp sẽ là 18o. Trong trường hợp ta định lượng xineola trong một tinh dầu có tỷ lệ xineola thấp hơn 39% thì ta thêm vào đó một là lượng xineola đã biết rồi thêm orthocresoa, rồi đo độ kết tinh suy ra lượng xineola; sau khi trừ đi lượng xineola đã thêm vào, ta có tỷ lệ xineola thực sự.

Một phương pháp định lượng khác dựa trên tính chất xineola cho với axit photphoric một kết hợp phân tử C10H18O, PO4H3, có tinh thể. Đặt một bình thuỷ tinh vào hỗn hợp sinh hàn, cho vào đó 10g tinh dầu và thêm axit photphoric đặc từng giọt một (tỷ trọng axit photphoric 1,75). Trong điều kiện này, tinh dầu ngả màu đỏ và cuối phản ứng, hỗn hợp có màu đỏ tươi. Nếu cho quá axit photphoric thì hỗn hợp sẽ trở thành nhão. Ép tinh thể giữa 2 tờ giấy thấm, và làm như vậy cho đến khi tờ giấy thấm không còn vết tinh dầu. Cân tinh thể, và nhân trọng lượng với 6,11 ta sẽ có tỷ lệ xineola trong 100 phân tinh dầu (theo Helling và Passmore).

Một phương pháp nữa dựa trên nguyên tắc xineola cho với resorxin một hỗn hợp tan trong dung dịch no resorxin: cho vào một bình 100ml có cổ dài và phần cổ bình có chia ngấn dung dịch resorxin 50%, lắc mạnh trong 5 phút rồi thêm dụng dịch resorxin cho tới khi tinh dầu nổi tới ngấn cuối cùng ở cổ bình. Đọc thể tích tinh dầu còn lại. Lấy 10 trừ đi số số ml tinh dầu còn lại nhân với 10 sẽ là tỷ lệ xinela trong 100ml tinh dầu.

Theo Charabot, phương pháp resorxin là tốt nhất nhưng cần chú ý rằng nếu tinh dầu chứa nhiều tạp chất chứa oxy khác giống như xineola cũng có thể tan trong dung dịch resorxin, do đó kết quả quá cao thì trước khi định lượng cần cất phân đoạn tinh dầu và chỉ lấy phần sôi giữa 170-190oC chứa toàn bộ xineola hoặc làm lạnh tinh dầu ở 5 và 10oC xineola sẽ kết tinh, lấy riêng xineola bằng ly tâm rồi tiến hành thí nghiệm.

Trên đây mới là thành phần hóa học của lá cây và tinh dầu của bạch đàn Eucalyptus Labill.

Trên thực tế, người ta cất tinh dầu từ nhiều loài rất khác nhau do đó thành phần tinh dầu bạch đàn cũng rất thay đổi.

Có nước như nước Anh công nhận mọi tinh dầu cất từ nhiều loài bạch đàn miễn là tinh dầu đó đáp ứng những tiêu chuẩn yêu cầu, nhưng có nước như Pháp chỉ công nhận làm thuốc có tinh dầu cất từ cây bạch đàn Eucalyptus globulus.

Về thành phần hoá học, người ta chia tinh dầu bạch đàn thành 3 loại:

   1. Tinh dầu chứa xineola như loài E. globulus.

   2. Tinh dầu chứa xitral như loài bạch đàn chanh E. citriodora thường chỉ dùng trong công nghiệp nước hoa.

   Ngoài ra lại còn tinh dầu bạch đàn chứa piperiton. Từ piperiton người ta chế thành mentola và tymola.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Lá bạch đàn dùng dưới dạng thuốc hãm 20g trong 1 lít nước, xirô, cồn thuốc (1/5). Làm thuốc bổ (do tanin) chữa ho, giúp sự tiêu hóa (do tinh dầu). Cồn thuốc còn dùng để xông mũi, chữa cảm sốt (nhỏ 2 đến 10ml cồn thuốc vào nước sôi).

Tinh dầu dùng bôi xoa ngoài da như tinh dầu tràm, hoặc chế thành thuốc tiêm (ngày tiêm 1-2 ống chứa 0,10-0,20g tinh dầu hòa tan trong dầu lạc trung tính). Còn dùng tinh dầu pha với dầu làm thuốc nhỏ mũi.

Chú thích:

   Ngoài tinh dầu và lá làm thuốc ra, một số cây bạch đàn cho chất gôm màu đỏ gọi là Red-gum hay Kino do chứa tanin nên được dùng trong cây nghệ thuộc da trắng.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây bồng bồng
09/04/2025 11:53 CH

- 牛角瓜. Còn có tên là nam tì bà, cây lá hen. Tên khoa học Calotropis gigantea R. Br. Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Đài hái - 油瓜. Còn gọi là du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, dây sén, mak khing (Lào), Kigarasu-uri (Nhật). Tên khoa học Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn. (Trichosanthes macrocarpa Blume). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Đại hoàng - 大黃. Còn gọi là xuyên đại hoàng, tướng quân. Tên khoa học Rheum sp. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Đại hoàng (Rhizoma Rhei) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại đại hoàng như chưởng diệp đại hoàng Rheum palmatum L., đường cổ đặc đại hoàng Rheum tanguticum Maxim. ex Regel (Rheum palmatum L. var. tanguticum Maxim.) hoặc dược dụng đại hoàng Rheum officinale Baill. hoặc một vài loài Rheum khác, tất cả đều thuộc họ Rau răm (Polygonaceaea). Vì vị thuốc màu rất vàng cho nên gọi là đại hoàng; vì có khả năng tống cái cũ, sinh cái mới rất nhanh chóng như dẹp loạn cho nên còn gọi là tướng quân.
Đại phong tử - 大風子. Còn gọi là chùm bao lớn, krabao phlêthom (Cămpuchia). Tên khoa học Hudnocarpus anthelmintica Pierre. Thuộc họ Mùng quân (Flacourtiaceae). Cây đại phong tử cho vị thuốc đại phong tử (Semen Hydnocarpi) là hạt phơi hay sấy khô của cây đại phong tử. Tên Hydnocarpus do hai chữ hydnon có nghĩa là một loài cây, carpus là quả nghĩa là quả giống một loài cây đã biết, anthelmintica do chữ Hy Lạp anti là chống lại, helminthe là trùng trong ruột ý muốn nói tác dụng của vị này đối với ký sinh trong ruột. Phong là tên Đông y của bệnh hủi và giống hủi, đại phong tử là loại quả to có tác dụng chữa bệnh hủi và giống hủi - tên này do Lý Thời Trân ghi chép trong cuốn Bản thảo cương mục (1595).
Đại phúc bì Là vỏ ngoài giữa phơi hay sấy khô của quả cau (xem cây cau). Thường các mảnh vỏ này được đập làm 2 mà phơi cho chóng khô.
Dâm bụt - 朱槿. Còn gọi là bụp (miền Nam), xuyên can bì. Tên khoa học Hibiscus rosa-sinensis L.. Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Đạm trúc diệp - 淡竹葉 (淡竹叶). Còn gọi là trúc diệp, toái cốt tử, trúc diệp mạch đông, mễ thân thảo, sơn kê mễ. Tên khoa học Lophatherum gracile Brongn. (Acroelytrum japonicum Steud.). Thuộc họ Lúa (Gramineae). Đạm trúc diệp (Herba Lophatheri) là toàn cây đạm trúc diệp phơi hay sấy khô.
Đằng hoàng - 藤黄. Còn gọi là vàng nhựa, vàng nghệ, gommegutte, đom rông, cam rông, roeng (Campuchia). Tên khoa học Garcinia hanburyi Hook. f [Cambogia gutta Lour, (non L.)]. Thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (Guttiferae). Đừng nhầm vị đằng hoàng (Gomme gutte) với vị hoàng đằng. Đằng hoàng là vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đã ghi từ thế kỷ thứ X và trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (Trung Quốc) có ghi vị này (Thế kỷ XVI). Đằng hoàng được dùng ở châu Âu vào năm 1603 (lúc đầu người ta cho đây là dịch mủ của một cây loại xương rồng, mãi tới 1864 Hanburyi mới nghiên cứu xác minh cẩn thận).
Dành dành - 栀子. Còn gọi là sơn chi tử, chi tử. Tên khoa học Gardenia jasminoides Ellis (Gardenia florida L.). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Cây dành dành cho ta vị thuốc gọi là chi tử. Chi tử (Fructus Gardeniae) là quả dành dành chín phơi hay sấy khô. "Chi" là chén đựng rượu, "tử" là quả hay hạt, vì quả dành dành giống cái chén uống rượu ngày xưa. Gardenia là tên nhà y học kiêm bác học, Florida là nhiều hoa.
Đào - 桃. Tên khoa học Prunus persica Stokes (Amygdalus persica L.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây đào cho ta các vị thuốc: (1) Nhân hạt đào tức là đào nhân (Semen Persicae); (2) Nước cất lá đào (Aqua Persicae).
Đào lộn hột - 檟如樹 (槚如树), 腰果. Còn gọi là quả diều, macađơ, giả như thụ, swai chanti (Campuchia). Tên khoa học Anacardium occidentale L. (Cassuvium pomiferum Lamk.). Thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Đậu chiều - 木豆. Gọi là đậu săng, đậu cọc rào, sandekday (Cămpuchia). Tên khoa học Cajanus indicus Spreng. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Đậu cọc rào - 麻瘋樹 (麻疯树). Còn gọi là ba đậu mè, ba đậu nam, dầu mè, cốc dầu, vong dầu ngô, đồng thụ lohong, kuang, vao (Campuchia), nhao (Viên tian), grand pignon d'Inde, feve d'èner. Tên khoa học Jatropha curcas L. (Curcaspurgans Medik.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Đậu đen - 黑豆. Tên hoa học Vigna cylindrica Skeels (Dolichos catjang Burm. f.). Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Tên khoa học của đậu đen hiện nay chưa được chính xác lắm. Có tác giả xác định là Vigna catiang Endl. var.
Đậu đỏ nhỏ - 赤小豆. Còn gọi là xích tiểu đậu, mao sài xích, mễ xích. Tên khoa học Phaseolus angularis Wight. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Đậu khấu - 白豆蔻. Còn gọi là bạch đậu khấu, viên đậu khấu. Tên khoa học Amomum cardamomum L. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Đậu khấu (Fructus Amomi cardamomi hay Fructus Cardamomi rotundi) là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây bạch đậu khấu hay viên đậu khấu (Amomum cardamomum).
Dầu rái trắng - 油樹 (油树). Còn gọi là dầu nước, nhang, yang may yang (Lào). Tên khoa học Dipterocarpus alatus Roxb. (Dipterocarpus gonopterus Turcz). Thuộc họ Dầu - Quả hai cánh (Dipterocarpaceae).
Đậu rựa - 刀豆. Còn gọi là đậu kiếm, đậu mèo leo, đao đậu tử. Tên khoa học Canavalia gladiata (Jacq) D. C. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Đậu sị - 淡豆豉. Còn gọi là đạm đậu sị, đỗ đậu sị, hăm đậu sị. Tên khoa học Semen Sojae praeparatum. Đậu sị hay đạm đậu sị là đậu đen chế biến và phơi hay sấy khô.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]