Giới thiệu sách

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam: Tổ chức khai thác sử dụng cây thuốc và vị thuốc Việt Nam trước và sau Cách Mạng Tháng Tám (Phần cuối)

Nguồn tin:  Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Cập nhật: 12/12/2024 01:37 SA

IMG


B. Sau Cánh Mạng Tháng Tám

Cách Mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu thì bọn thực dân Pháp, núp sau quân đội đế quốc Anh-Mỹ vào giải giáp quân đội Nhật ở Đông Dương đã quay trở lại hòng xâm chiếm đất nước ta một lần nữa.

Đêm 19 tháng 12 năm 1946, theo tiếng gọi của Đảng, của Hồ Chủ Tịch, toàn dân ta từ Bắc chí Nam đứng lên kháng chiến cứu nước. Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng đã kết thúc thắng lợi sau 9 năm chiến đấu anh dũng.

Trong thời gian kháng chiến, nước ta chia làm hai vùng cài răng lược với nhau: Vùng địch tạm chiếm thường bao gồm một số các thành phố đường giao thông quan trọng ở đồng bằng; vùng tự do bao gồm hầu hết miền rừng núi và nông thôn.

Tại vùng tạm chiếm, tình hình khai thác thuốc trở lại như hồi trước Cánh Mạng. Thuốc tây lại nhập của Pháp và nhập thêm của Anh-Mỹ, thuốc Bắc lại nhập của Trung Quốc (của Tưởng Giới Thạch) và Nam Triều Tiên. Tây y tiếp tục tìm cách bóp nghẹt Đông y.

Các nhà Đông y ở vùng tạm chiếm cũng lại tìm cách chống lại. Họ họp nhau lại thành lập Hội Y Dược (Đông y) và hoạt động đầu tiên của hội (28-03-1954) là làm một lá đơn gửi lên chính quyền bù nhìn lúc đó yêu cầu bọn chúng hủy bỏ đạo luật "Decoux" năm 1943.

Nhưng rồi chiếng thắng Điện Biên Phủ và tiếp đó là hội nghị Genève đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta, một nửa đất nước được hoàn toàn giải phóng. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nền Y học dân tộc của ta được xây dựng trên phương hướng "kết hợp Đông y và Tây y" và phương châm "tự lực cánh sinh" do Đảng và Hồ Chủ Tịch đề ra ngay từ đầu kháng chiến. Vai trò của Đông y ngày càng được nâng cao, việc khai thác thuốc Nam được mở rộng trên cơ sở những kinh nghiệm và kết quả đã đạt được trong vùng tự do của thời kỳ kháng chiến.

Trong vùng tự do, ngay từ những ngày đầu kháng chiến, theo đề nghị của chúng tôi "Viện khảo cứu và chế tạo dược phẩm" đã được thành lập trực thuộc Cục Quân y, Bộ Quốc phòng tổng tư lệnh để vừa nghiên cứu vừa đào tạo cán bộ vừa sản xuất thuốc bằng những nguyên liệu trong nước. Nhiều vị thuốc trước đây chỉ được dùng trong nhân dân như búp ổi, lá cà độc dược, thường sơn, trần bì, dầu khuynh diệp, .v.v. đã được nghiên cứu để chế thành những dạng thuốc tiện dùng, công hiệu, thay thế cho những vị thuốc trước đây phải nhập của nước ngoài. Có nhiều vị thuốc như mã tiền trước đây người ta cho rằng không có ở núi rừng miền Bắc nước ta, đã được phát hiện và khai thác để chế thuốc dùng trong quân đội và ngoài nhân dân.

Tại vùng giải phong miền Nam, việc khai thác những kinh nghiệm nhân dân được tiến hành dưới hình thức tập hợp các thầy thuốc Đông y, thu thập những bài thuốc kinh nghiệm, rồi phổ biến rộng rãi để nhân dân có thể tự giải quyết lấy bằng những vị thuốc hái quanh nhà, tự điều trị trong khi chờ đợi thầy thuốc.

Ngay trong kháng chiến việc trồng một số cây thuốc trên quy mô tương đối lớn đã được đặt ra để đảm bảo nguồn nguyên liệu đều đặn và chất lượng tốt.

Nói tóm lại, nhờ phương châm tự lực cánh sinh, tận dụng nguyên liệu trong nước cho nên từ Bắc chí Nam, trong những lúc kháng chiến gay go nhất, những thuốc thông thường và các thuốc chữa một số bệnh khó khăn đã được giải quyết bằng những cây thuốc mọc trong nước.

Sau chiến dịch biên giới (1950) việc buôn bán với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa có khả năng được khai thông. Các nước bạn bắt đầu mua một số thuốc Nam ở ta. Để đảm bảo cho nhu cầu xuất khẩu thuốc Nam, nhập thuốc Bắc, trong Sở mậu dịch Trung ương thuộc Bộ Công thương đã có bộ phận theo dõi, tổ chức mua, khai thác sa nhân, hồi quế, thảo quả, .v.v.

Tháng 9 năm 1953, do tình hình xuất thuốc Nam, nhập thuốc Bắc phát triển. Sở mậu dịch Trung ương chính thức thành lập một bộ phận xuất khẩu thuốc Nam, nhập khẩu thuốc Bắc để chỉ đạo việc khai thác và thu mua thuốc Nam ở các tỉnh. Nhưng dù sao trong thời gian nay, công cuộc kháng chiến vẫn là trọng tâm thu hút hoạt động của mỗi người chúng ta cho nên công việc khai thác thuốc Nam tiến bộ rất chậm và chỉ tập trung vào một số ít vị.

Sau khi hòa bình được lập lại, vào cuối năm 1954, trong Bộ Thương nghiệp đã thành lập Tổng Công ty lâm thổ sản với nhiệm vụ khai thác, thu mua các sản phẩm của rừng núi, đồng ruộng trong đó có thuốc Nam để dùng trong nước và xuất khẩu. Một phòng nghiệp vụ trực thuộc Tổng Công ty có nhiệm vụ theo dõi chung tất cả các lâm thổ sản, từ tre, gỗ, nứa, lá đến thuốc Nam.

Đầu năm 1956, vấn để khai thác các vị thuốc đã phát triển đòi hỏi một sự chỉ đạo nghiệp vụ chặt chẽ hơn, nên thành lập phòng Dược liệu thuộc Tổng Công ty để giúp cho sự chỉ đạo được sát hơn.

Hoạt động xuất thuốc Nam, nhập thuốc Bắc ngày một phát triển, thêm vào đó lại có nhiệm vụ tổ chức lại các hiệu thuốc Nam thuốc Bắc tư nhân, cho nên tháng 10 năm 1957 Bộ Thương nghiệp đã thành lập Công ty thuốc Nam thuốc Bắc Trung ương với nhiệm vụ thu mua thuốc Nam nhập thuốc Bắc để phân phối tiêu dùng trong nước.

Cùng với sự thành lập Công ty thuốc Nam thuốc Bắc Trung ương, các tỉnh cũng tổ chức các Công ty thuốc Nam thuốc Bắc địa phương để quản lý, phân phối thuốc Nam, thuốc Bắc trong từng tỉnh và thu mua thuốc Nam trao về cho Trung ương phân phối. Ở một số tỉnh chưa có Công ty thuốc Nam thuốc Bắc thì Ty Lâm nghiệp đảm nhiện việc thu mua thuốc Nam.

Bên cạnh Công ty thuốc Nam thuốc Bắc Trung ương trực thuộc Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương lại thành lập Tổng Công ty xuất nhập khẩu lâm thổ sản, có nhiệm vụ thu mua lâm thổ sản trong nước, trong đó có thuốc Nam để xuất. Tổng Công ty này có chi nhánh ở một số tỉnh.

Từ khi thành lập Công ty thuốc Nam thuốc Bắc trung ương và Tổng Công ty xuất nhập khẩu lâm thổ sản, công tác khai thác thuốc Nam đã được đẩy mạnh thêm một bước, một số vị thuốc mới được phát hiện.

Nhưng việc khai thác còn do những cán bộ chưa được đào tạo một cách chính quy phụ trách nên còn nhiều thiếu sót, chất lượng thuốc Nam thu mua chưa được đảm bảo, ảnh hưởng tới việc đẩy mạnh tiêu thụ trong nước và tăng nguồn xuất khẩu. Các cán bộ trong ngành y tế không có nhiệm vụ theo dõi nên còn ít quan tâm chú ý; chúng tôi đã giúp Công ty thuốc Nam thuốc Bắc đào tạo một số cán bộ dược liệu qua hai lớp học.

Cuối năm 1960, theo đề nghị của chúng tôi, được trên duyệt, Công ty thuốc Nam thước Bắc Trung ương đã được chuyển sang Bộ y tế quản lý. Được trao nhiệm vụ nghiên cứu, các cán bộ chuyên môn về cây thuốc tăng dần, đã góp phần đẩy mạnh công tác khai thác cây thuốc tiến lên một bước. Tuy nhiên, tổ chức khai thác cây thuốc còn chưa được hoàn bị và phải tiếp tục kiện toàn hơn nữa.

Nhưng đó không phải là việc chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây. Trong phạm vi mục này, chúng tôi chỉ muốn phác họa một số nét về tình hình khai thác cây thuốc và vị thuốc Việt Nam trước Cách Mạng Tháng Tám và trong những năm đầu khi hòa bình mới được lập lại, để chúng ta có thể hình dung được một phần nào sự khó khăn trong công tác điều tra, sưu tầm cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam.


Sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn www.dotatloi.com" khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây nhót tây
09/04/2025 11:45 CH

- 枇杷葉 (枇杷叶). Còn có tên là phì phà (Cao Bằng), nhót Nhật Bản, tỳ bà diệp. Tên khoa học Eriobotrya japonica Lindl. Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Tỳ bà diệp (Folium Eriobotryae) là lá khô của cây nhót tây hay tỳ bà.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Hương lâu - 香根草. Còn gọi là cỏ hương bài, hương lau. Tên khoa học Vetiveria zizanioides (Linn.) Nash.- Andropogon squarrosus Hack. Thuộc họ Lúa (Gramineae hay Poaceae).
Hương nhu - 香薷. Tên hương nhu hiện được dùng để chỉ nhiều vị thuốc khác nhau nhưng đều là những cây thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae). Ở Việt Nam có 2 loại cây hương nhu: (1) Hương nhu tía (Herba Ocimi) là toàn cây trừ rễ phơi hay sấy khô của cây hương nhu (Ocimum sanctum L.); (2) Hương nhu trắng (Herba Ocimi Gratissimi) là toàn cây trừ rễ phơi hay sấy khô của cây hương nhu trắng (Ocimum gratissimum L.). Tại Trung Quốc, tên hương nhu lại dùng để chỉ: (3) Hương nhu Trung Quốc (Herba Elsholtziae) là toàn cây trừ rễ phơi hay sấy khô của một loài kinh giới Elsholtzia patrini Garcke hay của một loài gần giống Elsholtzia haichowensis. Hương là mùi thơm, nhu là mềm, vì cây có mùi thơm, lá mềm.
Hương phụ - 香附. Còn gọi là củ gấu, cỏ gấu, cỏ cú. Tên khoa học Cyperus rotundus Linné. Thuộc họ Cói (Cyperaccae). Vị hương phụ là thân rễ - Rhizoma Cyperi - phơi hay sấy khô của cây củ gấu hay cỏ gấu Cyperus rotundus L. Người ta còn dùng củ của cây hải hương phụ Cyperus stoloniferus Retz mọc nhiều ở bãi cát gần biển. Cây cỏ gấu là một lọai cỏ khó tiêu diệt đối với nhà nông, nhưng là một vị thuốc quý nếu biết sử dụng.
Huyết giác - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là cây xó nhà, cây dứa dại, cây giáng ông. Tên khoa học Pleomele cochinchinensis Merr. (Dracaena loureiri Gagnep.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Huyết giác là chất gỗ màu đỏ, do một loại sâu hay nấm gây ra trên gỗ cây huyết giác già cỗi mục nát.
Huyết kiệt - 山石榴. Còn gọi là Sang dragon. Tên khoa học Calamus draco Willd. (Daemonorops draco Nred.). Thuộc họ Dừa (Palmaceae). Huyết kiệt (Resina Draconis hay Sanguis Draconis) là nhựa khô phủ trên mặt quả của một loại mây-song như Calamus draco Willd., Calamus propinquus Becc. Vì màu đỏ như máu lại khô cho nên gọi là huyết kiệt, có nơi gọi là máu rồng, cho nên châu Âu dịch nghĩ là Sang dragon (máu rồng). Vị thuốc được dùng cả trong Đông và Tây y nhưng cho đến nay đều còn phải nhập.
Hy thiêm - 豨簽 (豨莶). Còn gọi là cỏ đĩ, cứt lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, hổ cao, chó đẻ, nụ áo rìa. Tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. (S. glutinosa Wall., Minyranthes heterophylla Turcz.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cây này đầu tiên thấy dùng ở nước Sở (một nước cổ ở miền nam Trung Quốc); dân nước này gọi lợn là hy, gọi cỏ đắng cay có độc là thiêm, vì khí vị cây này như mùi lợn, do đó có tên. Chữ cứt lợn là dịch nghĩa Việt của tên cây, nhưng chỉ cần chú ý tên cứt lợn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cúc (xem vị này ở mục các thuốc chữa bệnh phụ nữ) để tránh nhầm lẫn trong khi sử dụng. Tên cỏ đĩ vì hoa cây này có chất dính, khi người ta đi qua, nó dính theo người ta. Hy thiêm thảo (Herba Siegesbeckiae) là toàn cây hy thiêm phơi hay sấy khô.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]