Giới thiệu sách

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam: Cơ sở lý luận về tìm thuốc và tác dụng của thuốc theo Đông y (Phần cuối)

Nguồn tin:  Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Cập nhật: 11/12/2024 11:48 CH

IMG

K. Vận dụng Thuyết Ngũ hành trong việc xét tính chất thuốc và dùng thuốc

Thuyết Ngũ hành là một học thuyết triết học bao trùm mọi mặt vận động của vật chất trong vũ trụ. Y dược học cổ đã vận dụng học thuyết đó vào cơ thể và tính chất của thuốc.

Căn cứ vào hình thái tính chất của từng bộ phận trong cơ thể, của từng vị thuốc, người xưa đã quy nạp các vị thuốc vào từng hành một, rồi vận dụng những tính chất đó trong việc điều trị và tìm thuốc.

Ví dụ hành Mộc là cây cỏ, thì màu xanh, vậy màu xanh thuộc hành Mộc; những cây tươi tốt vào mùa Xuân vậy mùa Xuân cũng thuộc hành Mộc; trong mùa Xuân nếu có quả thường chưa chín thì có Vị chua, vậy Vị chua cũng thuộc hành Mộc; nói đến cơ thể con người thì trong mùa Xuân con người ta thích hoạt động, mà theo quan niệm Đông y, sự hoạt động của con người do Gan chi phối vậy Gan (Can) thuộc Mộc.

Cứ như vậy mà suy ra, người ta đã quy tất cả các bộ phận trong cơ thể và tất các những vị thuốc đã biết vào 5 hành đó. Đối với những vị thuốc chua quy nạp, có thể dựa vào mùi vị màu sắc mà suy ra.

Coi bảng hệ thống quy loại Ngũ hành của một số hiện tượng sau:

Ngũ hành

Mộc

Hỏa

Thổ

Kim

Thủy

Phương hướng

Đông

Nam

Giữa

Tây

Bắc

Mùa

Xuân

Hạ

Cuối Hạ

Thu

Đông

Khí

Gió

Nóng

Ẩm thấp

Khô ráo

Lạnh

Ngũ tạng

Gan (Can)

Tim (Tâm)

Tỳ

Phế

Thận

Lục phủ

Đởm

(Mật)

Tiểu trường

(Ruột non)

Đại trường

(Ruột già)

Vị

(Dạ dày)

Bàng quang

(Bong bóng)

Ngũ khiếu

Mắt

Lưỡi

Miệng

Mũi

Tai

Cơ thể

Gân

Mạch

Thịt

Da, lông

Xương

Màu sắc

Xanh

Đỏ

Vàng

Trắng

Đen

Mùi vị

Chua

Đắng

Ngọt

Cay

Mặn

Trong bảng này chúng tôi chỉ trích giới thiệu một số hiện tượng và tính chất chính đã được quy nạp vào các hành. Trong các tài liệu cũ người ta quy nạp cả tiếng cười, tiếng khóc hay tình cảm như mừng lo, giận giữ vào Ngũ hành.

Trên cơ sở tính chất đã quy nạp, người ta vận dụng vào việc tìm thuốc, chế thuốc chữa bệnh như sau:

Tìm thuốc:

    Căn cứ vào mùi vị, người ta cho vị thuốc này có tác dụng trên bộ phân này hay bộ phận khác của cơ thể.

    Ví dụ một vị có vị Ngọt, màu Vàng thì sẽ tác dụng vào Tỳ Vị vì Tỳ Vị thuộc Thổ, màu Vàng vị Ngọt thuộc Thổ; một vị thuốc có vị Cay, màu Trắng thì sẽ tác dụng lên Phổi (Phế) vì Phổi thuộc hành Kim, màu Trắng, vị Cay cũng thuộc hành Kim .v.v.

Chế thuốc:

    Trong việc chế thuốc, người ta cũng vận dụng Ngũ hành.

    Ví dụ muốn cho một vị thuốc tác dụng vào Thận, người ta thường chế thuốc với đậu đen vì màu Đen thuộc hành Thủy mà Thận lại thuộc hành Thủy. Hoặc nếu phải tẩm thì cần tẩm nước muối vì muối có vị Mặn, mà Mặn thuộc hành Thủy là hành của Thận. Nếu muốn vị thuốc tác dụng lên Gan và Mật thì cần phải tẩm thuốc với giấm vì giấm có vị Chua mà Chua thuộc Mộc là hành của Gan và Mật. Muốn vị thuốc tác dụng vào Tỳ Vị thì cần tẩm với mật, vì Ngọt thuộc hành Thổ mà Thổ là hành của Tỳ Vị; cũng dựa theo lý luận đó mà người ta tẩm thuốc với đất vách màu Vàng để thuốc tốt với Tỳ Vị vì màu Vàng cũng thuộc hành Thổ.

Trong việc điều trị người ta cũng vận dụng như vậy. Ví dụ chảy máu thổ huyết. Huyết màu Đỏ, thuộc hành Hỏa; muốn chống với hành Hỏa phải dùng hành Thủy; hành Thủy thì thuộc màu Đen, vậy muốn chữa thổ huyết hay chảy máu, thuốc gì cũng phải đốt hay sao đen cho cháy đi. Như vậy là dùng tính chất khác nhau, chống nhau mà chữa bệnh. Muốn bồi bổ thì cũng phải dựa trên Ngũ hành, ví dụ muốn bổ cho có thịt thì dùng thuốc có vị Ngọt; chữa bệnh Phổi dùng vị thuốc có vị Cay như tinh dầu.

Nhưng cũng cần chú ý luật là thái quá có hại. Dùng Chua quá, hay ăn Chua quá thì sẽ hại Gan .v.v.

Chúng tôi cho rằng trong lúc khoa học chưa tiến bộ, Thuyết Âm Dương Ngũ hành cũng đã giúp cho ông cha ta những nguyên tắc chung trong việc tìm thuốc, chế thuốc cũng như trong việc điều trị. Do những lý luận ấy, tình cờ ông cha ta đã tìm ra những tác dụng giữa các vị thuốc với nhau buộc ta cần suy nghĩ để tìm được nguyên nhân theo khoa học hiện đại, mà duy trì hay thay đổi đi.

Ví dụ như do các nấu "hà thủ ô" nhiều lần với đậu đen mà uống không chát nữa; "sinh địa" nấu đi nấu lại nhiều lần sẽ cho "thục địa".

Tuy nhiên chúng ta cũng cần tránh suy luận lung tung làm cho việc tìm thuốc, chế thuốc thêm phức tạp một cách vô ích, có khi làm giảm hay làm mất tác dụng của thuốc.

L. Tính chất của thuốc trình bày theo tác dụng trên các đường kinh lạc

Trong các sách cổ, ngoài việc trình bày tính chất của thuốc theo Âm Dương, Hàn Nhiệt, Ngũ hành, nhiều khi còn giới thiệu tính chất của thuốc trên các đường Kinh lạc.

Ví dụ:

    Vị "mạn kinh tử" khí thanh, vị bạc, phù mà thăng Dương, vào các kinh Túc thái dương (Dàng quang kinh), Túc quyết âm (Can kinh), và Túc dương minh (Vị kinh) chủ chữa hàn nhiệt ẩn náu ở khoảng gân xương .v.v.

    "Thạch xương bồ" là thuốc vào kinh Thủ thiếu âm (Tâm kinh) và Túc thiếu âm (Thận kinh), người nào tâm trí bất túc nên dùng nó (Lý Thời Trân) .v.v.

Vậy ta nên hiểu qua một ít về Kinh lạc áp dụng trong tính chất của thuốc. Kinh lạc trước tiên là cơ sở lý luận của phép châm cứu. Nhưng lý luận về Kinh lạc lại liên quan chặt chẽ với Thuyết Âm Dương Ngũ hành cho nên cũng lại liên hệ chặt chẽ với những quan niệm về cơ thể và về thuốc giới thiệu ở các mục trên.

Chúng tôi thấy cần thiết giới thiệu phần Kinh lạc liên quan đến tác dụng của thuốc để chúng ta có thể hiểu được các tài liệu cổ.

Ta biết rằng trong châm cứu, người xưa quan niệm các cơ quan trong cở thể của ta được chi phối bởi 14 đường kinh mạch chính.

14 đường kinh mạch đó gồm 6 đường ở tay, 6 đường ở chân và 2 đường kinh mạch ở giữa người. Tất cả phân phối như sau:

IMG

    Ở tay có:

    1. Kinh Thủ thái dương còn gọi là Tiểu trường gồm 19 huyệt.

    2. Kinh Thủ quyết âm còn gọi là Tâm bào lạc gồm 9 huyệt.

    3. Kinh Thủ dương minh còn gọi là Đại trường gồm 20 huyệt.

    4. Kinh Thủ thiếu dương còn gọi là Tam tiêu kinh gồm 23 huyệt.

    5. Kinh Thủ thiếu âm còn gọi là Tâm kinh gồm 9 huyệt.

    6. Kinh Thủ thái âm còn gọi là Phế kinh gồm 11 huyệt.

    Ở chân có:

    7. Kinh Túc thái dương còn gọi là Bàng quang kinh gồm 67 huyệt.

    8. Kinh Túc quyết âm còn gọi là Can kinh gồm 14 huyệt.

    9. Kinh Túc dương minh còn gọi là Vị kinh gồm 45 huyệt.

    10. Kinh Túc thiếu dương còn gọi là Đảm kinh gồm 43 huyệt.

    11. Kinh Túc thiếu âm còn gọi là Thận kinh gồm 27 huyệt.

    12. Kinh Túc thái âm còn gọi là Tỳ kinh gồm 21 huyệt.

    Ở giữa người gồm hai đường kinh mạch là:

    13. Đốc mạch kinh ở lưng gồm 28 huyệt.

    14. Nhâm mạch kinh ở phía bụng gồm 24 huyệt.

Coi tên kinh mạch, chúng ta thấy mỗi kinh mạch lại chi phối một cơ quan trong cơ thể, mỗi cơ quan đó lại thuộc một Ngũ hành.

Ví dụ:

    Kinh Túc quyết âm hay Can kinh và kinh Túc thiếu dương hay Đảm kinh thuộc hành Mộc vì Can và Đảm thuộc hành Mộc; Mộc lại gồm những vị thuốc có màu Xanh, vị Chua. Vậy những vị thuốc có màu Xanh vị chua thường hay vào kinh Túc quyết âm  Túc thiếu dương.

    Kinh Thủ thiếu âm hay Tâm kinh và kinh Thủ thái dương hay Tiểu trường kinh đều thuộc Hỏa vì Tâm và Tiểu trường thuộc hành Hỏa; những vị thuốc sắc Đỏ vị Đắng thường vào kinh Thủ thiếu âm và kinh Thủ thái dương.

Trên cơ sở lý luận đó ta có thể thấy:

    - Những vị thuốc màu Vàng, vị Ngọt thuộc Thổ sẽ vào kinh Túc thái âm (Tỳ kinh) và Túc dương minh (Vị kinh).

    - Những vị thuốc màu Trắng, vị Cay thuộc Kim sẽ đi vào các kinh Thủ thái âm (Phế) và Thủ dương minh (Đại tràng).

    - Những vị thuốc màu Đen, vị Mặn thuộc Thủy, vào các kinh Túc thiếu âm (Thận) và Túc thái dương (Bàng quang).

Chúng ta có thể tóm tắt sự phối hợp giữa Màu sắc, Mùi vị và Tạng phủ với Kinh lạc theo sơ đồ sau đây:

IMG


Sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI


Xin vui lòng ghi rõ nguồn www.dotatloi.com" khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Gai tầm xoọng
17/04/2025 08:16 CH

- 酒餅簕 (酒饼簕). Còn gọi là cúc keo, quít gai, quít hôi, độc lực, cây gai xanh, mền tên, tửu bính lặc. Tên khoa học Atalantia buxifolia (Poir.) Oliv. (Atalantia bilocularis Wall., Severinia monophylla Tanaka.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Ngô thù du - 吳茱萸. Còn gọi là thù du, ngô vu. Tên khoa học Evodia rutaecarpa (Juss) Benth. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Ngô thù du (Fructus Evodiae) là quả chín phơi khô của cây thù du. Thù du ở nhièu nơi đều có, nhưng chỉ có loại thù du ở đất Ngô là tốt hơn cả, do đó có tên ngô thù du.
Ngũ bội tử - 五倍子. Còn gọi là bầu bí, măc piêt, bơ pật (Thái). Tên khoa học Galla sinensis. Ngũ bội tử (galla sinensis) là những túi đặc biệt do nhộng của con sâu ngũ bội tử Schlechtendalia sinensis Bell gây ra trên những cuống lá và cành của cây muối hay cây diêm phu mộc - Rhus semialata Murray (Rhus sinensis Mill.) thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Ngũ gia bì - 五加皮. Còn gọi là xuyên gia bì, thích gia bì (ngũ gia bì gai). Tên khoa học Acanthopanax aculeatus Seem. Acanthopanax aculeatum Hook. Acanthopanax trifoliatus (L). Merr. Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae). Ngũ gia bì (Cortex Acanthopanacis), là vỏ rễ phơi khô của cây ngũ gia bì. Vì lá có 5 lá chét to chụm vào với nhau và chỉ dùng vỏ rễ làm thuốc do đó có tên như vậy. Ngoài vị trên ra, tên ngũ gia bì còn chỉ nhiều vị khác nhau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Ngưu bàng - 牛蒡子. Còn gọi là đại đao, á thực, hắc phong tử, thử niêm tử. Tên khoa học Arctium lappa L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cây ngưu bàng cho các vị thuốc sau đây: Ngưu bàng tử (Fructus Arctii-Fructus Bardanae), là quả chín phơi hay sấy khô của cây ngưu bàng. Đông y thường dùng quả, tây y thường dùng rễ với tên grande bardane. Vì cây trông xấu xí, sần sùi, sắc sạm như da trâu (ngưu là trâu bò) do đó có tên này.
Nhãn hương - 龍眼 (龙眼). Tên khoa học Melilotus suaveolens Ledeb. Thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae). Nhãn hương là mùi thơm của nhãn vì cây khô thoang thoảng có mùi nhãn, Melilotus do chữ Hy Lạp mel = mật, lotos = cỏ thức ăn gia súc, vì cỏ thức ăn gia súc có mùi mật.
Nhân trần Tên nhân trần lại dùng để chỉ ít nhất cũng là 3 cây khác nhau, hình dáng và họ thực vật khác hẳn nhau. Cần chú ý khi sử dụng và nghiên cứu: (1) Cây nhân trần Việt Nam (chữ Việt Nam là do chúng tôi tạm thêm để phân biệt mấy cây với nhau). Tên khoa học được một số nhà thực vật của ta xác định là Adenosma caeruleum R. Br, thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). (2) Cây nhân trần bồ bồ vì một số vùng gọi là bồ bồ, một số vùng khác gọi là nhân trần. Trong những sách do chính chúng tôi viết và cho in, một số tác giả trước đây thường gọi là nhân trần. Nhưng trên thực tế điều tra lại, tên bồ bồ phổ biến hơn. Hiện nay Công ty dược liệu vẫn thu mua và cung cấp cây bồ bồ này với tên nhân trần. Tên khoa học là Adenosma capitatum Benth. thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariacase). Trước đây xác định là Acrocephalus capitatus thuộc họ Hoa môi (Labiatae). Nay mới đính chính lại. (3) Cây nhân trần Trung Quốc (chữ Trung Quốc chúng tôi cũng mới thêm sau để phân biệt mấy cây với nhau). Trong các sách Trung Quốc không có thêm 2 chữ Trung Quốc vào mà lại gọi là nhân trần cao. Tên như vậy vì trên thực tế chỉ thấy giới thiệu trong các sách Trung Quốc; chưa thấy mọc ở Việt Nam, có tên khoa học là Artemisia capillaris Thunb. thuộc họ Cúc (Compositae). Hai cây trên được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, nhưng ít được nghiên cứu hoặc nghiên cứu chưa đầy đủ, còn cây nhân trần Trung Quốc không thấy sử dụng ở ta nhưng lại được nghiên cứu tương đối kỹ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]