QUÍT - TRẦN BÌ - 橘 - 橘皮
Còn gọi là quyết, hoàng quyết, trần bì, thanh bì, mandarinier (Pháp).
Tên khoa học Citrus deliciosa Tenore, Citrus nobilis var. eliciosa Swigle.
Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Quít - Citrus deliciosa
Cây quít cho ta các vị thuốc sau đây:
1. Trần bì (Pericarpium Citri deliciosa) là vỏ quít phơi càng để lâu càng coi là quý và tốt.
Trong nhân dân thường lưu truyền câu để chỉ rõ tầm quan trọng này:
Nam bất ngoại trrần bì,
Nữ bất ly hương phụ
Có nghĩa là chữa bệnh cho nam giới không thể thiếu vị trần bì, chữa bệnh cho nữ giới không thể không dùng vị hương phụ.
2. Quất hạch (Semen Citri diliciosae) là hạt quít phơi khô.
3. Thanh bì (Pericarpium Citri immaturi) vỏ quả quít còn xanh.
A. MÔ TẢ CÂY
Quít là một cây nhỏ, lá mọc so le, đơn, mép có răng cưa, vỏ có mùi thơm đặc biệt. Hoa nhỏ, màu trắng, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình cầu hai đầu dẹt, màu vàng cam hay vàng đỏ, vỏ mỏng nhẵn hay hơi sần sùi, dễ bóc. Mùi thơm ngon, nhiều hạt.
B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN
Được trồng ở khắp nơi trong nước ta. Nhiều nhất tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Hà, Bắc Thái, Hà Bắc v.v...
Tại Trung Quốc, ngoài cây cùng loài với quít của ta, người ta còn trồng một số loài quít khác và cũng cho vị trần bì và quất hạch như cây đại hồng cam Citrus chachiensis Hort (Citris reticulata var. chachiensis H. H. Hu hay Citrus nobilis var. chachiensis Wong), cây phúc quyết (Citrus tangeriana Hort et Tanaka hay Citrus reticulata var. deliciosa H. H. Hu và cây châu quyết (Citrus erythrosa Tanaka hay Citrus reticulata Blanco var. erythrosa H. H. Hu).
Ở Việt Nam, ngoài cây quít ngọt, ta còn dùng vỏ nhiều loại cây quít khác chưa ai xác định tên khoa học, như quít giấy, quít tàu, quít nuốm v.v...
C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Trong quả quít vỏ chiếm 22-22,5%, nước quít 28-56%, hạt 1,3-2,5%, các thứ khác 0,3%.
Vỏ quả quít còn tươi chứa tinh dầu 3,8% (2000 đến 2500 quả cho 1 lít tinh dầu), nước và thành phần bốc hơi được 61,25%, hesperidin C50H60O27, vitamin A, B và chừng 0,8% tro.
Khi phơi khô để lâu như trần bì, chất gì tác dụng hiện chưa ai nghiên cứu.
Tinh dầu quít là một chất lỏng màu vàng nhạt, có huỳnh quang xanh, mùi thơm dễ chịu. Tỷ trọng 0,853-0,858. Thành phần chủ yếu trong tinh dầu quít là d.limonen, một ít xitrala, các andehyt nonylic và đexylic, chừng 1% metylanthranilatmetyl (do chất này tinh dầu có huỳnh quang và mùi thơm đặc biệt).
Trong nước quít có đường 11,6%, axit xitric 25, vitamin C (25-40mg trong 100g), caroten.
Hạt quít chưa được nghiên cứu: Người ta mới chỉ định lượng độ tro chừng 0,2%.
Trong lá quít cũng có chứa chừng 0,5% tinh dầu.
D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Ngoài công dụng của quả quít trong thực phẩm, vỏ và lá quít để chế tinh dầu, quít còn là một vị thuốc rất quan trọng và rất thông dụng trong đông y và trong nhân dân.
Theo tài liệu cổ: Trần bì vị cay, đắng, tính ôn vào hai kinh Tỳ và Phế; hạt vị đắng tính bình, vào hai kinh Can và Thận. Có tác dụng kiện tỳ, lý khí, táo thấp, hóa đờm. Tác dụng của lá cũng như hạt.
Trần bì là một vị thuốc chữa ăn uống không tiêu, ăn không ngon, nôn mửa, sốt rét, trừ đờm.
Liều dùng hàng ngày: 4-12g hay hơn.
Quất hạch chữa sa đì (thiên truỵ, hòn dái sưng đau) ngày dùng 6-12g hay 16g.
Nước quít uống trong khi say rượu, giải khát, thêm vitamin bồi bổ.
Lá quít hơ nóng đắp chữa đau bụng, ho, sưng vú. Có khi phơi khô sắc uống như vỏ quít. Ngày dùng 6-12g.
Đơn thuốc có trần bì và hạt quít:
- Thuốc giúp sự tiêu hóa: Trần bì 0,5g, hoàng bá 0,3g, hoàng liên 0,3g, đảng sâm 0,3g, cam thảo 0,3g. Tất cả tán bột, trộn đều. Chia ba lần uống trong ngày.
- Chữa ho mất tiếng: Trần bì 12g, sắc với 200ml nước, còn 100ml cho thêm đường vào cho đủ ngọt, nhấp uống dần trong ngày.
Chú thích:
Trong đông y còn dùng vị thanh bì có khi là vỏ quả chưa chín của nhiều cây chi Citris thuộc họ cam quít - Pericarpium Citri immaturi, có khi lại dùng quả non, tự nhiên dụng phơi khô - Fructus Citri immaturi cũng gọi là thanh bì.
Trong thanh bì có lại còn chia như sau:
Quả con phơi khô: Gọi là thanh qua tử hay cá thanh bì. Quả trung bình bóc lấy vỏ phơi khô gọi là thanh bì. Quả to tự nhiên rụng, còn xanh đem đồ cho chín hoặc nhúng nước sôi, rồi dùng dao cắt làm 4 mảnh, nhưng không cắt rời nhau ra, các mảnh còn dính với nhau ở đầu, loại bỏ ruột đi, phơi khô gọi là tứ hoa thanh bì.
Công dụng cũng như trần bì, liều lượng cũng chừng 6-12g một ngày sắc hay tán bột uống.