Ô DƯỢC - 烏葯 (乌药)
Còn gọi là cây dầu đắng, ô dược nam.
Tên khoa học Lindera myrrha (Lour.) Merr. (Laurus myrrha Lour., Litsea trinervia Pers., Tetratthersa trinervia Spreng., Daphnidium myrrha Nees.).
Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Vệ châu ô dược - Cocculus laurifolius
Ô dược (Radix Linderae) là rễ phơi hay sấy khô của cây dầu đắng hay ô dược nam.
A. MÔ TẢ CÂY
Ô dược nam là một cây nhỏ, cao độ 1,30-1,40m; cành gầy, màu đen nhạt.
Lá mọc so le, hình bầu dục, dài 6cm, rộng 2cm, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới có lông; hai gân phụ bắt đầu từ điểm cách cuống lá 2mm, dài ra chừng 2/3 lá; mặt trên lõm, mặt dưới lồi lên. Cuống gầy, dài 7-10mm, lúc đầu có lông, sau nhẵn; mặt trên hõm thành rãnh.
Hoa màu hồng nhạt, họp thành tán nhỏ, đường kính 3-4mm.
Quả mọng hình trứng khi chín có màu đỏ, một hạt.
Toàn cây có mùi thơm, vị đắng.
B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN
Mọc hoang ở nhiều tỉnh toàn miền Bắc. Nhiều nhất tại các tỉnh miền Trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại Bắc Bộ, có ở Hòa Bình, Sơn Tây.
Có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào thu đông hay đầu xuân.
Đào rễ, cát bỏ rễ con, rửa sạch, phơi khô.
Nếu thái miếng thì rễ tươi lấy về, cạo sạch vỏ ngoài (có khi không cạo) ngâm vào nước thỉnh thoảng thay nước rồi thái thành từng miếng mỏng phơi khô.
C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Vị ô dược nam chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
Trong quả mọng có thể chiết được một thứ dầu màu đỏ.
Trong ô dược bắc, người ta phân biệt hai loại:
1. Thiên thai ô dược: Là rễ cây Lindera strychnifolia Will. (hay Benzoin strychnifolium Kuntze) cùng họ.
2. Vệ châu ô dược: Là rễ cây Cocculus laurifolius DC. thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Trong thiên thai ô dược, người ta đã xác định được các chất ancaloit như: Linderan C8H10O2, lindêren C8H14O2, rượu linderola C11H22O và axit linderic C15H18O3 và este của rượu linderola.
Ngoài ra, người ta còn xác định được một xeton với công thức C15H18O2và một chất linderazulen với công thức C14H16.
Trong vệ châu ô dược, người ta xác định được một ancaloit gọi là coclorin C17H19O8N.
Công thức của coclorin đã xác định như sau:
D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Ô dược còn là một vị thuốc dùng trong phạm vị nhân dân, làm thuốc chữa đau bụng, ăn không tiêu, nôn mửa, trẻ con có giun, sung huyết, đầu nhức, hay đi đái đêm.
Ngày dùng 2-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Đơn thuốc có ô dược:
1. Ô hương tán: Ô dược - hương phụ, hai vị bằng nhau, tán nhỏ. Mỗi lần dùng 6-8g bột này. Có thể sắc uống. Tùy theo các bệnh mà thay đổi thêm các vị khác sau đây: Ăn không ngon, sắc nước gừng mà chiêu thuốc (4g gừng); nếu có giun, thang bằng hạt cau (hạt cau 4g sắc với 50ml nước dùng chiêu thuốc).
2. Viên ô dược: Ô dược tán nhỏ, thêm nước hồ làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10-20 viên chữa lỵ, sốt, đi ỉa.
Chú thích:
Theo các tài liệu cũ, trong nước ta có vệ châu ô dược Cocculus laurifolius DC. thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Đây là một thứ dây leo, gầy nhẵn, màu xanh lục nhạt. Lá có cuống ngắn gần giống như lá quế. Phiến phía cuống nhọn, dai, nhẵn dài 9cm, rộng 3-5cm, có 3 gân, nổi rõ ở cả hai mặt. Quả hình thấu kính, đường kính 5mm. Hạt cũng gần giống như quả, hình thấu kính, nhưng ở hai mặt có dìa nổi lên trông giống móng ngựa
Hiện cây này chưa phát hiện lại được, mặc dầu tài liệu cũ nói cây này mọc ở khắp Việt Nam.
Theo sự nghiên cứu của Nhật Bản, thì trong vỏ là lá có ancaloit gọi là cocculin có tác dụng giống như chất curarơ.