HUYẾT LÌNH
Còn gọi là lục linh.
Lình là tên tiếng Thổ của con khỉ; lục là nhau thai và huyết linh là máu chảy ra của con khỉ sau khi đẻ, phơi khô.
A. THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN
Vào mùa khỉ đẻ, vào tháng 5-6 âm lịch (6-7 dương lịch) người ta đến những nơi núi đá ở những nơi khỉ hay ở và đi lại, tìm những mỏm núi đá là nơi khỉ hay ngồi sau khi đẻ để cạo lấy huyết đã khô đen. Có những mảng huyết đọng dày tới 1cm hay hơn.
Khi mới cạo về đem phơi nắng hay sấy cho khô, cất vào lọ hay gói kín để chỗ khô ráo.
Khi dùng thì sấy khô tán nhỏ.
Tại những chợ vùng núi nước ta vào các tháng 8-9 dương lịch, người ta thường đem bán huyết lình dưới dạng cục nhỏ bằng đầu ngón tay màu đen nâu như màu bã cà phê mùi tanh, khi dùng cần tán nhỏ để ngâm rượu hay cho vào cháo mà ăn.
B. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
Soi kính hiển vi chỉ thấy toàn hồng cầu, có lẫn các chất bẩn khác.
C. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Huyết lình là một vị thuốc nhân dân hay dùng làm thuốc bổ máu cho phụ nữ sau khi đẻ, cho những người xanh xao gầy yếu, trẻ con gầy còm, chậm lớn, kém ăn.
Dùng ngoài dưới hình thức ngâm rượu để xoa bóp làm thuốc giảm đau, trong những trường hợp đau nhức, ngã hay bị thương mà sưng đau.
Uống trong: Ngày 1-2g huyết lình đã sấy khô tán nhỏ hay ngâm rượu. Nếu ngâm rượu cần hâm nóng lên trước khi uống để cho khỏi tanh.
Đơn thuốc có huyết lình dùng trong nhân dân:
- Chữa trẻ con chậm lớn, kém ăn: Huyết lình sấy khô tán nhỏ, cho vào cháo nóng cho trẻ con ăn vào buổi sáng. Mỗi lần cho uống 1-2g. Dùng luôn trong 7-10 ngày.
Đơn thuốc này còn dùng cho phụ nữ sau khi đẻ bị xanh xao gầy yếu, mà không uống được rượu.
- Thuốc xoa bóp khi đau ngã: Huyết lình không kể liều lượng, cho vào ngâm càng đặc càng tốt, thường một phần huyết lình 5 phần rượu. Khi dùng ngâm nóng mà xoa bóp vào chỗ sưng đau. Có thể dùng để uống.