ĐỖ TRỌNG - 杜仲

Tên khoa học Eucommia ulmoides Oliv.

Thuộc họ Đỗ trọng (Eucommiaceae).

đỗ trọng, 杜仲, Eucommia ulmoides Oliv., họ Đỗ trọng, Eucommiaceae

Đỗ trọng - Eucommia ulmoides

Đỗ trọng (Cortex Eucommiae) là vỏ phơi hay sấy khô của cây Đỗ trọng. Xưa kia vì có người họ Đỗ tên Trọng dùng vị thuốc này, do đó mà đặt tên.

A. MÔ TẢ CÂY

Đỗ trọng là một cây to hay nhỏ, có thể cao tới 10m, 20m, luôn luôn xanh tươi. Liên Xô cũ đã biến cây này thành cây nhỏ cao 3-3,5m để tiện cho việc thu hoạch; lá mọc so le, hình trứng rộng, đầu lá nhọn, gốc lá tròn, mép lá có răng cưa, khi đứt lá làm 2-3 mảnh sẽ thấy những sợi nhựa trắng như tơ giữa các mảnh lá đó liền nhau, phiến lá rộng 3,5-6,5cm, dài 6-13cm. Cuống lá ngắn 1-1,5cm. Hoa đơn tính. Hoa đực, hoa cái khác gốc; không có bao hoa. Quả hình thoi dài 3cm, rộng 1cm dẹt, đầu quả xẻ làm 2 thành hình chữ V.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây đỗ trọng hiện chưa thấy mọc hoang ở Việt Nam. Năm 1958 chúng tôi đưa giống của Trung Quốc về trồng nhưng chưa thành công. Năm 1965 chúng tôi đã trồng thử đỗ trọng bằng hạt ngay tại Hà Nội. Cây mọc và phát triển rất tốt. Cây vẫn còn sống (9/1969) (1). Cây mọc được cả ở những nơi lạnh như Sapa (Hoàng Liên Sơn). Gần đây ở Việt Nam đã trồng nhiều hơn tuy nhiên số lượng chưa đủ nên hiện nay vị đỗ trọng chính thức vẫn phải nhập. Trên thị trường có bán nam đỗ trọng là vỏ của những cây khác, nên chú ý để tránh nhầm lẫn (xem chú  thích ở dưới).

Chú thích (1): Trên núi Ba Vì ở độ cao 400 và 800m có trồng đỗ trọng, cây phát triển kém, bị chết nhiều.

Đỗ trọng được trồng ở Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu v.v...) và ở Liên Xô cũ (miền Nam).

Vào mùa hạ, bóc vỏ ở những cây có đường kính to, ép cho phẳng, thành đống, chờ 6-7 ngày cho đổ mồ hôi, mặt trong có màu đen nâu bấy giờ mới đem phơi khô. Vỏ mỏng, mặt ngoài màu xám, mặt trong đen nâu nhạt, khi bẻ có các sợi trắng như tơ giống như mành mành.

Trong lá có tanin và nhựa. Không có ancaloit. Dù sao, hoạt chất cũng chưa rõ.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Đỗ trọng được nhiều người nghiên cứu để sử dụng chất nhựa của nó có tính  chất như cao su.

- Theo J. Parkin (1921) trong đỗ trọng có 5% độ ẩm, 2,5% tro, 70% nhựa và 22,5% gutta pecka. Tuy nhiên chất gutta pecka này có tính chất đàn hồi kém gutta pecka thật, việc chiết xuất lại khó khăn, hiệu suất thu được chỉ 2% trong khi chiết xuất ở các cây khác có gutta pecka hiệu suất thu được cao gấp 2-3 lần.

- Từ sau đại chiến lần thứ 2, Liên Xô cũ trồng rất nhiều ở vùng Capcadơ để lấy chất gutta pecka. Theo sự nghiên cứu của các nhà bác học Liên Xô cũ trong vỏ cây đỗ trọng có 3-7% chất có tính chất của gutta pecka, trong lá có 2%,  trong quả 27,34%. ở nhiệt độ 45-70o, chất gutta pecka của đỗ trọng có tính chất dẻo rất cao, khả năng chịu nước biển và độ cách điện cũng cao do đó dùng  làm vật cách điện và để bọc dây điện ngầm dưới biển.

Ngoài chất như gutta pecka, trong đỗ trọng có chứa chất màu, chất anbumin, chất béo, tinh dầu và muối vô cơ.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

N.V. Sapdinscôi (Phòng dược lý viện VNIFI, Liên Xô - 1950) đã nghiên cứu và xác định vị đỗ trọng không có độc.

Với liều vừa phải, có tác dụng kích thích. Với liều cao có tác dụng ức chế hệ thống thần kinh trung ương, nhất là vùng vỏ não. Tác dụng hạ huyết áp do tác dụng trên trung tâm vận mạch ở hành tủy và trên mê tẩu thần kinh (nerf vague). Đỗ trọng còn có tác dụng làm mạnh sự co bóp của cơ tim. Nước sắc đỗ trọng tăng lượng nước tiểu đối với chuột bạch và tăng sức đối với cơ nhẵn của sừng tử cung và ruột.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ: đỗ trọng vị ngọt hơi cay, tính ôn, vào hai kinh Can và Thận. Có tác dụng bổ can, thận, mạnh gân cốt, an thai, dùng chữa đau lưng, đi tiểu nhiều, chân gối yếu mềm.

Trong Bản thảo cương mục có chép: "Bàng Nguyên Anh kể lại: Xưa có người thiếu niên mới lấy vợ bị bệnh yếu chân không đi được, uống các thuốc không  khỏi, sau có lương y Tôn Lãm bắt mạch đoán rằng bệnh đó là do thận hư, cho uống đỗ trọng chỉ trong 10 ngày là khỏi". Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác. Liều dùng: ngày uống 5-12g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.

Tại Liên Xô cũ, từ năm 1951 đã công nhận đỗ trọng là một vị thuốc chính thức để điều trị bệnh cao huyết áp. Dùng dưới dạng thuốc sắc, cao lỏng hoặc rượu đỗ trọng (20% trong rượu 30o).

Đơn thuốc có đỗ trọng:

   Theo Liên Xô cũ: Cao lỏng đỗ trọng: 25g, mỗi lần uống 15-30 giọt. Ngày uống 2-3 lần. Rượu đỗ trọng: 15g, mỗi lần dùng 15-30 giọt. Ngày dùng 2-3 lần.

   Đơn thuốc trong đông y. Chữa các bệnh sau khi sinh nở, thai không yên: đỗ trọng (cạo vỏ, sắc) giã với táo đỏ Trung Quốc (táo tầu) viên bằng hạt đậu. Ngày uống 2 lần, mỗi làn 10 viên.

Chú thích:

   Hiện nay ở Việt Nam, ta đang khai thác vỏ một số cây với tên nam đỗ trọng; vỏ dày, tơ ít và ngắn hơn. Không phải vị đỗ trọng nói ở trên. Cần nghiên cứu để xác định lại tên và giá trị chữa bệnh.

   Theo các tài liệu cũ (Petelot, 1953) ở nước ta có khai thác vỏ cây cao su với tên đỗ trọng Parameria glandulifera Benth thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Ngay ở Trung Quốc, một số tỉnh cũng dùng với tên đỗ trọng vỏ một cây khác thuộc chi Evonymus hoặc Celastrus thuộc họ Vệ mâu (Celastraceae).